Theo dữ liệu do Văn phòng Thống kê Nhà nước CHND Trung Hoa công bố cho tháng 11, chỉ số PMI (chỉ số quản lý thu mua Purchasing Managers Index) đã tăng lên 50,1 so với mức 49,2 hồi tháng 10. Mà chỉ số trên 50 có nghĩa là lĩnh vực này đang mở rộng. Đồng thời, chỉ số PMI chuyên biệt trong khối sản xuất là 52 điểm. Trong khi đó chỉ số giá mua dành cho các nhà sản xuất lại giảm trong tháng, từ 72,1 xuống 52,9. Đồ thị đi xuống như vậy có nghĩa là giá nguyên liệu thô và chi phí sản xuất bắt đầu tăng chậm hơn nhiều so với một năm trước đây. Còn có chi tiết là trước đó, các chuyên gia phân tích của Bloomberg đã đưa ra dự đoán trái lại về sụt giảm phần lớn các chỉ số PMI so với tháng 10.
Tháng 10 blackout cắt điện tối tăm
Quả thực các chỉ báo tháng 10 đều dưới 50 điểm, có nghĩa là hầu hết chỉ số theo tất cả các hướng đều co lại. Động lực tiêu cực do thúc đẩy từ hàng loạt yếu tố gây sức ép với nền kinh tế Trung Quốc. Thứ nhất, trong tháng 10, tình trạng thiếu điện vẫn tiếp diễn. Do tăng vọt giá nhiên liệu năng lượng, kể cả giá than, nên việc sản xuất điện nhiều hơn ở Trung Quốc vẫn không mấy lợi nhuận đối với các nhà máy phát điện bởi Nhà nước quản lý giá khá ngặt. Trong khi đó nhu cầu điện tăng mạnh do sự phục hồi nhanh chóng trong hoạt động sản xuất sau cơn khủng hoảng cũng như đã bắt đầu sang mùa lạnh cần sưởi ấm. Hệ quả là nhiều nhà máy điện hầu như không còn nhiên liệu dự trữ. Đến cuối tháng 9, hơn 20 tỉnh ở Trung Quốc đã buộc phải áp dụng chế độ phân bổ khẩu phần về tiêu thụ năng lượng.
Hành động đúng đắn của chính quyền
Hiển nhiên, bố cục này ảnh hưởng đến hoạt tính kinh doanh và tất cả các chỉ số kinh tế. Bây giờ trong tháng 11, nhờ các động thái của chính quyền nhằm hoá giải khủng hoảng, tình hình đã có phần trở lại bình thường. Đáng chú ý là quý IV luôn là mùa cao điểm đối với các khoản đầu tư đổ vào Trung Quốc. Doanh nghiệp hiểu rõ điều này. Do đó, ngay sau khi các rào cản cơ bản được gỡ bỏ, hoạt tính kinh doanh bắt đầu tăng mạnh, - như GS Hoàng Duy Bình từ Viện Kinh tế thuộc Đại học Nhân dân Trung Quốc lý giải với Sputnik.
Tình hình trở lại bình thường sau sự can thiệp của Ủy ban Nhà nước về Cải cách và Phát triển, thông qua và thi hành hai biện pháp quan trọng. Trước hết, chỉ đạo áp đặt mức giá trần đối với dòng than cung cấp cho các công ty phát điện. Có thể đặt câu hỏi: Liệu quy định cứng rắn có dẫn đến thiệt hại thua lỗ cho các nhà khai thác than? Cần lưu ý rằng mức giá do Ủy ban Nhà nước ấn định dù sao cũng cao hơn giá than giao sau trung bình trên thế giới. Vì vậy, giá than siêu cao ở Trung Quốc phần nhiều không phải bởi các động lực kinh tế nền tảng, mà là do lợi ích đầu cơ.
Biện pháp quan trọng thứ hai là tự do hóa giá nhiên liệu điện. Biên độ dao động giá điện tiềm ẩn được mở rộng từ 10% lên 20%. Trong đó, huỷ bỏ hoàn toàn những hạn chế tương tự đối với các doanh nghiệp sử dụng nhiều năng lượng. Ai tiêu thụ nhiều điện sẽ trả phí thuần tuý theo giá thị trường, vốn dao động tùy theo nhu cầu. Cuối cùng, sự ổn định chung của giá năng lượng ở các nước còn lại trên thế giới cũng tác động tích cực đến Trung Quốc. Kết quả là, nền kinh tế đã hồi sinh sau thời kỳ blackoutvà chuyển sang tăng tốc trở lại.
Nhưng đừng vội vui mừng
Sức ép với đà tăng trưởng GDP còn do các yếu tố bất lợi khác gây ra, cụ thể là tình trạng nợ nần phức tạp của nhà phát triển lớn nhất Trung Quốc Evergrande, định kỳ bùng phát COVID-19 kèm theo các biện pháp chống dịch tễ liên quan, chi phí logistics tăng, sự gián đoạn trong công việc của các cảng biển. Tất cả những điều đó dẫn đến tăng giá chưa từng thấy đối với sản phẩm của các nhà sản xuất. Đã tăng 13% trong tháng 10, là mức cao kỷ lục kể từ năm 1995. Ở mức độ nhất định, sự «tan băng» trong tháng 11 là hệ quả từ ảnh hưởng cân bằng của những yếu tố tích cực đã liệt kê ở trên.
Tuy vậy, trong triển vọng trung hạn, có thể diễn ra những biến động mới, kể cả những xáo trộn ở «vùng tiêu cực». Biến chủng COVID-19 mới «Omicron» đang lây nhiễm khắp thế giới có thể gây ra một đợt bùng phát đại dịch nữa trên địa bàn Trung Quốc, mà như thế đồng nghĩa với khả năng phải siết chặt những biện pháp hạn chế. Ngoài ra, do mức lạm phát cao của nhà sản xuất Trung Quốc, cơ quan quản lý điều phối sẽ phải tiếp tục theo đuổi chính sách tiền tệ vừa tầm, tránh tạo kích thích cấp thời. Dù sao chăng nữa, ngân hàng trung ương Trung Quốc nhất định sẽ tính đến yếu tố chu kỳ kinh tế trong chính sách của mình. Theo quan điểm của chuyên gia Hoàng Duy Bình, hẳn sẽ có những biện pháp điểm được áp dụng để chống lại dao động chu kỳ.
Tuy nhiên, vẫn tiếp nối những cuộc thảo luận ở cấp độ quan chức Trung Quốc chuyên trách khối kinh tế, bàn cách tiếp cận cần thiết để tạo xung lực tăng GDP. Ngay từ mùa xuân năm 2020, đã thảo luận phương án thi hành chính sách nới lỏng định lượng - Ngân hàng Trung Quốc sẽ mua trái phiếu trị giá 5 nghìn tỷ nhân dân tệ với lãi suất 0. Nhưng ý tưởng này đã bị bác bỏ. Thực tiễn ở Hoa Kỳ đã chỉ ra rằng thái độ nhiệt tình đối với nới lỏng định lượng quả là sẽ dẫn đến lạm phát – mức tăng giá ở Mỹ trong năm nay hóa ra là chưa từng có trong suốt mấy thập kỷ qua. Thêm nữa, điều quan trọng là phải lường tính đến những rủi ro trì trệ. Mới đây, ông Lưu Thể Cẩm thành viên Ủy ban Chính sách Tiền tệ của Ngân hàng trung ương Trung Quốc đã lưu ý rằng nếu nhu cầu vẫn yếu ớt mà giá sản phẩm của nhà sản xuất tiếp tục tăng, ắt sẽ phát sinh nguy cơ lạm phát và đình trệ. Như đang thấy, rõ ràng là trong năm tới, các quan chức Trung Quốc phụ trách khối kinh tế sẽ càng thêm nhiều chuyện phải bận tâm. Giới chức này cần phải tìm ra cân bằng tinh tế mong manh giữa nhu cầu tăng trưởng và đòi hỏi ổn định cần thiết của khối tài chính.
Ý kiến trong bài viết là quan điểm của tác giả, không nhất thiết phản ánh quan điểm của Sputnik.