Dù có đến khoảng 70% lượng niken được dùng để sản xuất thép không gỉ, tuy nhiên, xu hướng phát triển công nghiệp xe điện (EV) ngày càng mạnh khiến nhu cầu dùng niken sản xuất pin tăng đột biến, gây sự sự thay đổi địa chấn trên thị trường niken thế giới.
Giới chuyên gia đánh giá rằng, cuộc cách mạng xe điện làm tăng nhu cầu tiêu thụ niken, thúc đẩy nguồn niken tự nhiên và khai thác hiệu quả sẽ đóng góp đáng kể cho kinh tế Việt Nam.
Niken là gì? Vì sao niken quan trọng với thế giới?
Niken (Nickel – NI), một kim loại màu trắng bạc, bề mặt bóng láng, cứng, dễ dát mỏng và dễ uốn, dễ kéo sợi.
Trong bối cảnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nhất là trong chuỗi cung ứng toàn cầu hiện nay, niken là một trong nhiều tài nguyên đang được săn đón hàng đầu trên thế giới, đặc biệt là khi NI được sử dụng nhiều trong ngành công nghệ tương lai như pin xe điện (EV).
Là kim loại có tính chất đặc biệt nên niken hiếm khi được sử dụng ở dạng tinh khiết mà chủ yếu được sử dụng như một thành phần hợp kim: hợp kim chống ăn mòn, hợp kim từ, hợp kim chịu nhiệt, hợp kim có tính chất đặc biệt
Cơ quan Khảo sát địa chất Hoa Kỳ (USGS) đã thêm niken vào danh sách đề xuất về “50 khoáng chất quan trọng”, được xác định dựa trên yếu tố là những khoáng chất thiết yếu đối với kinh tế hoặc an ninh quốc gia hoặc có chuỗi cung ứng dễ bị gián đoạn, trong khi 4 loại khoáng sản khác như kali, đã bị loại khỏi danh sách năm 2021 của USGS.
PGS. TS Ngô Xuân Thành (Đại học Mỏ - Địa chất) đã thông tin nhiều vấn đề quan trọng về vai trò của niken cũng như tiềm năng đặc biệt lớn của Việt Nam về dòng kim loại này. Cụ thể, trong cuộc trao đổi với báo Chính phủ, ông Thành cho hay, trên thế giới, khoảng 70% lượng niken được dùng để sản xuất thép không gỉ, 17% được dùng để làm "siêu hợp kim" và 7% được dùng trong công nghiệp mạ.
Số lượng còn lại được ứng dụng trong các lĩnh vực khác, như pin sạc, chất xúc tác và các hóa chất khác.
Đồng thời, với dự báo về việc sử dụng xe điện gia tăng, các kim loại để sản xuất pin điện sẽ ngày càng được quan tâm, trong đó có niken, với trữ lượng trên thế giới hiện vào khoảng 89 triệu tấn.
Theo PGS.TS Ngô Xuân Thành, trong những năm gần đây, kinh tế xã hội trong nước và thế giới phát triển, đi cùng đó là nhu cầu về nguyên liệu kim loại, pin điện được sử dụng rộng rãi.
“Tỷ lệ kim loại niken được sử dụng trong sản xuất pin hiện chiếm khoảng 4% tổng sản lượng niken thế giới”, PGS. TS Ngô Xuân Thành thông tin.
Theo chuyên gia, dự báo trong giai đoạn sắp tới, do lượng niken sử dụng để sản xuất pin xe điện tăng lên và quy mô sản xuất pin được mở rộng, nhu cầu sản lượng niken sẽ tăng lên đáng kể. Điều này đồng nghĩa với việc, thế giới có thể bước vào cơn khát niken nếu như chuỗi cung ứng toàn cầu bị ảnh hưởng hay gián đoạn do các biến động địa chính trị hay xung đột.
Cũng theo ông Ngô Xuân Thành, trong bối cảnh diễn biến ngành công nghiệp sản xuất thép không gỉ đang tăng trưởng mạnh mẽ, tiêu thụ niken dự kiến sẽ tiếp tục tăng trong giai đoạn sắp tới.
Cụ thể, mức tiêu thụ sẽ từ 2,4 triệu tấn vào năm 2019 lên 2,8 triệu tấn vào năm 2025 và tốc độ tăng trưởng tiêu thụ khoảng 2,2% một năm.
Trên thế giới hiện nay, nhu cầu sử dụng niken rất lớn ở Trung Quốc theo giới chuyên gia sẽ làm ảnh hưởng đến tăng trưởng tiêu thụ kim loại này trong giai đoạn sắp tới.
Đồng thời, Trung Quốc hiện đang chiếm hơn một nửa lượng tiêu thụ niken của thế giới và dự báo sẽ tiếp tục tăng do hoạt động sản xuất thép không gỉ và sản xuất pin ngày càng tăng cho xu hướng xe điện phổ biến.
Trong khi đó, ở khu vực Đông Nam Á, Indonesia - nước khai thác quặng niken lớn nhất thế giới cũng đã bắt đầu phải tính toán lại phương cách bảo toàn thứ kim loại quan trọng này cho mình.
Cụ thể, từ tháng 1/2020, Chính phủ Indonesia đã quyết định khôi phục lệnh cấm xuất khẩu quặng niken, nhằm giữ lại nguồn quặng cho ngành công nghiệp chế biến niken trong nước.
Trữ lượng và tiềm năng niken của Việt Nam
Nghiên cứu của Thạc sĩ Đào Công Vũ đăng trên cổng thông tin của Viện Khoa học và Công nghệ Mỏ - Luyện kim, Bộ Công Thương cho thấy, tổng trữ lượng và tài nguyên niken ở Việt Nam hiện nay ước tính khoảng 3,6 triệu tấn niken kim loại, tập trung chủ yếu ở các tỉnh Thanh Hóa hơn 3 triệu tấn, Sơn La: 420.523 tấn, Cao Bằng 133.677 tấn.
Cũng như xu hướng chung của thế giới, quặng niken hàm lượng cao đang ngày càng cạn kiệt, do đó, quặng niken xâm tán hàm lượng thấp đang trở thành nguồn thay thế quan trọng để sản xuất niken kim loại hay hợp kim có niken, vì vậy loại quặng có trữ lượng lớn này trở lên có giá trị kinh tế đáng kể.
Phần lớn tài nguyên niken ở Việt Nam tồn tại ở dạng khoáng vật đi kèm trong quặng crôm như vùng mỏ crômit Cổ Định (Thanh Hóa), hiện chưa có giải pháp thu hồi hiệu quả.
Trong khi đó, quặng niken ở khu vực Sơn La và Cao Bằng chủ yếu là loại hình quặng niken - đồng xâm tán.
Thạc sĩ Đào Công Vũ đánh giá, định hướng phát triển công nghệ chế biến sâu niken phù hợp nhất hiện nay của Việt Nam là sản xuất các chế phẩm muối niken và tiến tới hợp tác với các doanh nghiệp có công nghệ nguồn để sản xuất pin từ nguồn quặng niken trong nước.
“Đạt mục tiêu đó sẽ vừa đáp ứng nhu cầu phát triển năng lượng tái tạo của công nghiệp xe điện, vừa phát huy được hiệu quả nguồn tài nguyên quý của Việt Nam”, giới chuyên gia lưu ý.
Từ năm 2018, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt Quy hoạch thăm dò, khai thác, chế biến và sử dụng quặng vàng, đồng, niken, molibden đến năm 2025, có xét đến năm 2035, trong đó đã nêu rõ định hướng đối với khoáng sản niken đặc biệt quan trọng này.
Theo đó, phấn đấu sản lượng khai tuyển đạt 118.000 tấn tinh quặng niken vào năm 2025. Giai đoạn đến năm 2025, đầu tư và đưa vào hoạt động 2 nhà máy sản xuất sản phẩm niken với tổng sản lượng khoảng 8.000-11.000 tấn/năm.
Hồi tháng 5/2020, trình bày trong báo cáo Đánh giá khả năng thu hồi niken từ mỏ Quang Trung - Hà Trì (tỉnh Cao Bằng) của nhóm Thạc sĩ Đào Công Vũ - Phạm Đức Phong - Trần Thị Hiếnđăng trên cổng thông tin của Viện Khoa học và Công nghệ Mỏ - Luyện kim có nêu ra thực tế rằng, do chưa có điều kiện nghiên cứu sâu hơn về loại hình quặng, các chế độ công nghệ, chế độ thuốc tuyển nên mặc dù đã thu được sản phẩm tinh quặng niken có hàm lượng Ni và MgO đạt yêu cầu thương phẩm, nhưng hệ số thu hồi các khoáng vật có ích còn chưa cao, sản phẩm trung gian giàu MgO chưa được quan tâm xử lý.
“Do vậy, giai đoạn tới cần tiếp tục có các đầu tư, nghiên cứu để thu hồi thêm khoáng vật có ích từ sản phẩm trung gian giàu MgO; đồng thời cần nghiên cứu bổ sung biện pháp kiểm soát được hàm lượng MgO trong tinh quặng niken hợp lý mà vẫn đảm bảo thu hồi tinh quặng từ khu mỏ đạt hiệu quả tốt nhất”, nhóm nhà nghiên cứu của Việt Nam nhấn mạnh.
Tập đoàn Australia Blackstone khai thác niken ở Việt Nam ra sao?
Tập đoàn Blackstone Minerals, công ty thăm dò và khai thác mỏ của Australia đang phát triển 3 dự án có chu trình liên quan chặt chẽ tại khu vực phía Bắc Việt Nam.
Dự án đáng chú ý của Blackstone ở Việt Nam được báo chí quốc tế bàn luận khá sôi nổi. Theo đó, tầm nhìn của Blackstone là trở thành công ty đi đầu trong cuộc cách mạng pin với sứ mệnh đơn giản là Pin xanh cho tương lai tươi sáng (Green batteries. Brighter Future). Doanh nghiệp này đánh giá rằng niken của họ có thể được mô tả chính xác là “xanh” bằng cách sử dụng các nguồn năng lượng tái tạo sẵn có ở Việt Nam trong khai thác và chế biến.
Từ năm 2019, BlackStone của Australia đã tiến hành thương vụ mua lại 90% Công ty TNHH Mỏ Niken Bản Phúc, xã Bản Phúc, huyện Bắc Yên, tỉnh Sơn La, nằm cách Hà Nội 160 km.
BlackStone chọn được vị trí “đắc địa” vì địa điểm này nằm gần trung tâm sản xuất mới của miền Bắc – thành phố Hải Phòng, nơi LG Chem và nhà sản xuất xe ô tô Việt Nam VinFast đặt trụ sở nhà máy.
Theo đó, dự án thượng nguồn (khai thác) có trọng tâm là mỏ niken Bản Phúc ở tỉnh Sơn La. Các hoạt động hiện tại bao gồm khoan thăm dò và chuẩn bị mẫu để thử nghiệm. Sự phát triển trong tương lai sẽ phụ thuộc vào kết quả thử nghiệm và việc cấp các giấy phép cần thiết của Chính phủ Việt Nam.
Dự án hạ nguồn (tinh luyện) sẽ bao gồm việc chế biến sâu quặng niken từ dự án (khai thác) ở thượng nguồn, nằm xã Gia Phù, huyện Phù Yên, tỉnh Sơn La.
BlackStone hiểu rằng, việc phát triển Công ty TNHH Mỏ Niken Bản Phúc đòi hỏi công việc thiết kế và thử nghiệm nghiêm ngặt và quy mô, để bảo đảm đáp ứng tất cả các tiêu chuẩn về môi trường và xã hội của Chính phủ, cũng như các tiêu chuẩn để đạt được tất cả các giấy phép cần thiết. Công việc này hiện đang được tiến hành và dự kiến sẽ tiếp tục trong 12 tháng tới đây, theo Chính phủ.
Cùng với đó, Blackstone tập trung vào phát triển quy trình sản xuất ra các loại kim loại dùng cho pin điện bằng việc tích hợp giữa thượng nguồn (khai thác) và hạ nguồn (tinh luyện) tại Việt Nam, để sản xuất ra NCM, tiền chất gồm Nickel-Cobalt-Manganate (NCM) cho ngành công nghiệp pin lithium-ion (Li-ion) đang phát triển ở châu Á và cung cấp sản phẩm có chứng thực xanh từ mỏ khai thác đến khách hàng sử dụng.
Lãnh đạo Việt Nam cũng cho rằng, việc doanh nghiệp Úc Blackstone nỗ lực tạo ra giá trị gia tăng cho các sản phẩm khai thác và triển khai theo cách thân thiện với môi trường bằng cách sử dụng thủy điện tái tạo sẽ giúp đưa Việt Nam đi đầu trong cuộc cách mạng xanh.
Ông Scott Williamson, Tổng Giám đốc Blackstone Minerals Ltd cho hay, hiện dự án đang tích cực triển khai giai đoạn thử nghiệm để đưa nhà máy hoạt động vào năm 2025.
“Đặc biệt, dự án chú trọng xây dựng các "mỏ xanh", giảm thiểu chất CO2 ra ngoài khí quyển để tiến tới đạt được mục tiêu không phát thải CO2 trong tương lai”, đại diện doanh nghiệp khoáng sản Australia cam kết.
PGS. TS Ngô Xuân Thành nhận định rằng, công nghệ mới được Công ty Blackstone Minerals đưa vào tạo nên thành phẩm sử dụng để chế biến pin là một hướng đi mới đáng xem xét.
Theo chuyên gia, nguồn quặng chủ yếu dưới dạng xâm tán trong mỏ niken Bản Phúc sẽ được chú trọng, khai thác hiệu quả, đáp ứng nhu cầu cho việc phát triển công nghiệp xe điện và năng lượng tái tạo.
“Điều này cũng đồng thời góp phần quan trọng trong việc phát triển kinh tế nước ta, cũng như góp phần giải quyết công ăn việc làm cho người dân địa phương”, PGS. TS Ngô Xuân Thành nêu rõ.
Chuyên gia cũng dự báo rằng, với nhu cầu niken đang ngày càng tăng cao trong bối cảnh cách mạng xe điện, việc thúc đẩy nguồn niken tự nhiên sẽ đóng góp quan trọng vào sự phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam hiện tại và trong tương lai.