Điều này đặc biệt đúng với khu vực Đông Nam Á, được minh chứng bởi vai trò mờ nhạt của Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) trong cuộc chiến chống lại sự gia tăng của chủ nghĩa bảo hộ, Modern Diplomacy viết.
Chủ nghĩa bảo hộ trỗi dậy ở Đông Nam Á
Chủ nghĩa bảo hộ đề cập đến các trường hợp mà chính phủ cố gắng cải thiện điều kiện trong nước của mình bằng cách hạn chế ảnh hưởng kinh tế bên ngoài, hay rộng hơn là rút về nội địa hàng hóa của chính mình và kém tích cực hơn trên thị trường quốc tế. Từng bị coi là lỗi thời ở đỉnh cao toàn cầu hóa, khái niệm này hiện đang nổi lên trong bối cảnh một sự kiện hiếm có được dự đoán trước, chứng tỏ mức độ liên quan của chủ nghĩa bảo hộ vẫn còn tồn tại. Ngoài những thách thức trực tiếp do xung đột giữa Nga và Ukraina gây ra cho phương Tây, các nước châu Á, bao gồm cả các thành viên của ASEAN, cũng đang phải vật lộn để đối phó với cuộc khủng hoảng lương thực và năng lượng. Để đối phó với tình trạng thiếu hụt và gián đoạn nguồn cung, Indonesia đã cấm các công ty dầu cọ xuất khẩu sản phẩm vào cuối tháng 4 (mặc dù lệnh cấm đã được dỡ bỏ ba tuần sau đó), sau đó Malaysia đình chỉ xuất khẩu thịt gà từ tháng 6 năm nay.
Mặc dù động cơ ban đầu của các quốc gia này là ưu tiên nguồn cung trong nước có thể hiểu được, nhưng phương pháp mà họ đang áp dụng dường như gây hại nhiều hơn lợi. Ở cấp độ một quốc gia, lệnh cấm ảnh hưởng trực tiếp đến người lao động và nhà sản xuất, hạn chế danh sách khách hàng và các bên liên quan, nói cách khác chính là lợi nhuận tài chính của mình. Do đó, nguồn ngoại hối quốc gia cũng bị thu hẹp, gây bất lợi cho quan hệ hợp tác và đối tác quốc tế trong thương mại. Ở quy mô rộng hơn, lệnh cấm đối với các nhà xuất khẩu lớn ở khu vực Đông Nam Á có thể làm gián đoạn sự thay đổi nguồn cung toàn cầu, làm trầm trọng thêm cuộc khủng hoảng lương thực trên toàn thế giới vào thời điểm quan trọng như vậy.
Vấn đề ASEAN
Sự xuất hiện của chủ nghĩa bảo hộ ở châu Á, chủ yếu thể hiện qua lệnh cấm xuất khẩu lương thực, đặc biệt tập trung vào 1/5 số quốc gia thành viên ASEAN, đặt ra câu hỏi về vai trò và khả năng của nhóm khu vực này trong việc đối phó với các cuộc khủng hoảng quy mô lớn không mong đợi. ASEAN dường như có xương sống kinh tế của riêng mình, Cộng đồng Kinh tế ASEAN, với nhiều cấu trúc và một số cơ chế an ninh lương thực được thiết kế để giải quyết các tình trạng đó. Tuy nhiên, một số ít trong số đó dường như áp dụng hoặc thực hiện nương theo sự kiện hiện tại. Trên thực tế, các nước ASEAN vẫn đang phải vật lộn để đảm bảo an ninh lương thực trong nước, và cuộc đấu tranh của nước này ảnh hưởng trực tiếp đến nước khác, ví dụ như lệnh cấm xuất khẩu thịt gia cầm của Malaysia, đã ảnh hưởng rất lớn đến Singapore.
Chính quyền các nước có lý do chính đáng để dỡ bỏ lệnh cấm trong trường hợp lạm phát và giá cả tăng. Tuy nhiên, lẽ ra ngay từ đầu đã không xảy ra tình trạng này mà xảy ra do sự kết nối giữa ASEAN với các đối tác còn yếu. Về lý thuyết, các nước ASEAN được quyền đáp ứng các nhu cầu của khu vực, ít nhất là vì nhiều thành viên của khối này vẫn là những nhà xuất nhập khẩu hàng đầu trên thế giới, hoặc ít nhất là hiệp hội có quan hệ đối tác thương mại với họ.
Cần nhắc lại tình trạng thiếu lương thực hiện nay ở khu vực Đông Nam Á có thể đã được ngăn chặn và có thể được khắc phục. Tuy nhiên, ASEAN có rất ít lựa chọn ngoài việc tăng cường hợp tác nội khối và tăng cường quan hệ đối tác với bên ngoài dựa trên các cơ chế và liên kết hiện có.
Để cụ thể hơn, nên xem xét một ví dụ. Lệnh cấm xuất khẩu thịt gia cầm sang Malaysia là do nguồn cung ngô và đậu tương từ Ukraina bị gián đoạn, việc xuất khẩu bị ngừng lại dẫn đến tình trạng khan hiếm thức ăn gia cầm ở các nước đối tác. Đây là một tình huống rất không mong muốn, nhưng ở một mức độ nào đó, nó lại bộc lộ một sự thật đáng buồn.
Ukraina thực sự là một nước xuất khẩu ngô và đậu tương lớn. Tuy nhiên, bằng cách đánh giá các yếu tố như địa lý, hậu cần, cơ khí, chỉ ra một số ít, có thể nói rằng các nước ASEAN có nhiều lợi thế hơn với nhau trong thương mại. Tuy nhiên, những lợi thế này vẫn chưa được khai thác đúng mức, trong bối cảnh Malaysia đã chọn nhập khẩu hai loại nông sản này từ Ukraina, quốc gia có ít tính năng chiến lược nói trên hơn so với ASEAN và các đối tác. Nếu nhìn vào các thành viên khác của hiệp hội, về các sản phẩm này, họ chủ yếu buôn bán với các đối tác trong ASEAN. Theo dữ liệu thương mại ngô của OEC, Mỹ, Argentina và Brazil là những nhà xuất khẩu hàng đầu vào năm 2020, với các chiến lược tăng cường quan hệ chặt chẽ với các nước Đông Nam Á. Khi nói đến đậu nành, tình hình cũng giống như vậy. Do đó, có thể kết luận Malaysia, với tư cách là một trong những nước thành viên, có thể giao dịch thương mại với các quốc gia thành viên khác, hoặc ít nhất là mua lại từ họ, với sự hỗ trợ của cấu trúc ASEAN. Điều này đã không xảy ra, dẫn đến lệnh cấm xuất khẩu thịt gà, làm trầm trọng thêm cuộc khủng hoảng lương thực toàn cầu một phần do sự hợp tác yếu kém giữa các nước ASEAN và thiếu hệ thống giám sát ở cấp khu vực.
Cần thay đổi trong ASEAN
ASEAN đã có các cơ quan chuyên ngành đặc biệt, các ủy ban giải quyết khía cạnh này của nền kinh tế. Điều cần làm là không để các ủy ban này chỉ tồn tại trong các văn bản mà phải thực sự áp dụng kịp thời và hiệu quả trong các trường hợp thực tế. Khu vực có vị trí tốt để hỗ trợ lẫn nhau trong việc đối phó với những cuộc khủng hoảng như vậy, nhưng có thể sẽ mất nhiều thời gian và nỗ lực hơn để làm sâu sắc hơn ý thức về sự đồng hành và hợp tác.