Điều này được cho là sẽ tác động đến giá gạo thế giới bởi Ấn Độ hiện chiếm hơn 40% lượng gạo xuất khẩu toàn cầu mà còn “làm lợi” cho gạo Việt Nam hay gạo Thái Lan.
Gạo Việt Nam sẽ hưởng lợi sau lệnh áp thuế xuất khẩu gạo của Ấn Độ
Việc hạn chế xuất khẩu gạo của Thủ tướng Narendra Modi vừa được đưa ra sau những lo ngại về các tình huống phát sinh ảnh hưởng đến an ninh lương thực quốc gia.
Đồng thời, động thái cấm xuất khẩu gạo được Ấn Độ đưa ra 4 tháng sau lệnh cấm xuất khẩu lúa mì do mất mùa và nguồn gạo dự trữ bị cạn kiệt.
Trên thị trường gạo thế giới, Ấn Độ là nhà xuất khẩu khổng lồ khi gạo Ấn Độ được xuất khẩu sang hơn 150 quốc gia trên toàn cầu.
Niên vụ 2021-2022 (từ tháng 4 năm ngoái đến tháng 3 năm nay), Ấn Độ đã xuất khẩu 21,21 triệu tấn gạo, đạt trị giá 9,66 tỷ USD. Đây là mức kỷ luật, Theo nhà chức trách Ấn Độ, con số đó bao gồm 3,95 tấn gạo basmati (trị giá 3,54 tỷ USD) và 17,26 tấn gạo tẻ thường (trị giá 6,12 tỷ USD). Tiếp sau đó nước này còn xuất thêm 7,43 tấn gạo các loại (trị giá 2,76 tỷ USD).
Dự kiến các lệnh hạn chế xuất khẩu đợt này sẽ lên tới 9,83 triệu tấn, tương đương 3,36 tỷ USD. Hiện Ấn Độ có bốn loại gạo xuất khẩu chính. Trong đó chỉ có hai loại gạo basmati và gạo đồ là vẫn được phép xuất khẩu tự do. Hai loại còn lại gồm gạo tẻ thường và gạo tấm bị cấm xuất khẩu, gây lo ngại khá lớn cho thị trường gạo toàn cầu.
Với vai trò quan trọng của mình trên thị trường gạo toàn cầu, bất kỳ sự giảm sút nào trong việc cung ứng gạo của Ấn Độ cũng sẽ làm tăng áp lực lên giá lương thực trong bối cảnh nguồn cung đang thắt chặt vì hạn hán và xung đột địa chính trị tại Ukraina.
“Động thái của Ấn Độ có thể cản trở người mua đến với thị trường này và chuyển sang các đối thủ như Thái Lan, Việt Nam”, theo Chủ tịch của Hiệp hội các nhà xuất khẩu gạo Ấn Độ B.V. Krishna Rao.
Lãnh đạo Hiệp hội này cho rằng, động thái mới (bán gạo tấm và áp thuế 20% đối với một số loại gạo khác – PV) sẽ ảnh hưởng đến gạo trắng và gạo lứt, vốn chiếm hơn 60% sản lượng gạo bán cho các quốc gia khác của Ấn Độ. Chưa kể, quyết định này của chính phủ ông Modi còn “làm lợi” cho các đối thủ cạnh tranh như Việt Nam và Thái Lan. Ấn Độ chiếm hơn 40% lượng gạo xuất khẩu toàn cầu và cạnh tranh với Thái Lan, Việt Nam, Pakistan và Myanmar trên thị trường thế giới.
Trồng lúa ở Ấn Độ
© AP Photo / Rajesh Kumar Singh
Một số nhà xuất khẩu Ấn Độ cũng quan ngại, chính sách mới ban hành là quá bất ngờ, gây khó khăn cho các hợp đồng đã ký. Người mua không thể trả thêm 20% so với giá đã ký trước đó, và bên bán cũng không đủ khả năng trả mức thuế này. Vì vậy, xuất khẩu của Ấn Độ sẽ giảm ít nhất 25% trong thời gian tới vì thuế quan.
Năm 2021, xuất khẩu gạo của Ấn Độ đạt kỷ lục 21,5 triệu tấn, vượt xa Thái Lan (7,2 triệu tấn), Việt Nam (6,6 triệu tấn) và Pakistan (4,8 triệu tấn).
“Bằng việc áp thuế, các lô hàng gạo của Ấn Độ sẽ trở nên khó cạnh tranh trên thị trường thế giới. Người mua sẽ chuyển sang Thái Lan và Việt Nam”, Chủ tịch Rao nói.
Giá gạo tăng sau động thái của Ấn Độ
Chủ tịch của Hiệp hội các nhà xuất khẩu gạo Ấn Độ B.V. Krishna Rao cũng dự báo về giá gạo sẽ tăng cao sau lệnh cấm của Chính phủ.
Theo ông Rao, động thái của Chính phủ sẽ thúc đẩy giá gạo toàn cầu. Giá gạo trắng xuất khẩu có thể vượt 400 USD/tấn từ mức 350 USD/tấn hiện nay trên cơ sở giao hàng tự do.
Thực tế, sau động thái của Ấn Độ, gạo 5% tấm của Myanmar vào khoảng 390- 395 USD/tấn. Tại Ấn Độ, giá gạo trắng 5% tấm ở mức 348 USD/tấn.
Theo một thương nhân Singapore, giá gạo Myanmar đã tăng 50 USD/tấn, trong khi các nhà cung cấp ở Thái Lan và Việt Nam dự kiến cũng sẽ báo giá cao hơn.
Trong khi đó, ngay sau khi có thông tin Ấn Độ siết nguồn xuất khẩu, một số doanh nghiệp gạo tại Việt Nam đã tạm ngừng giao dịch để theo dõi biến động mới của thị trường, vì gạo có thể tăng giá trong thời gian tới.
Theo ông Phan Văn Có, Giám đốc Marketing Công ty TNHH Vrice chia sẻ với Doanh nghiệp và Kinh doanh cho biết gạo Việt Nam trong nước đang tăng 200-300 đồng/kg đối với gạo trắng. Do vậy, các doanh nghiệp xuất khẩu đang tranh thủ mua hàng để giao cho các đơn hàng trước đó.
“Với đơn hàng mới, hiện công ty đang tạm ngưng ký thêm các hợp đồng gạo trắng và tấm do giá gạo đang lên. Khả năng trong 5-10 ngày tới, giá gạo xuất khẩu của Việt Nam sẽ chào bán tăng 15-20 USD/tấn”, ông Có nói.
Trước đó, gạo Việt Nam xuất ra nước ngoài vẫn tăng cả lượng và giá trị, nhưng giá xuất khẩu trung bình lại xuống thấp.
Thực tế, Tổng cục Hải quan Việt Nam ghi nhận, trong tháng 8, Việt Nam đã xuất khẩu 718 nghìn tấn gạo, với tổng trị giá gần 340 triệu USD, tăng 23,2% về lượng và tăng 19% về trị giá so với tháng trước đó.
Dù vậy, giá gạo xuất khẩu bình quân chỉ đạt 473,5 USD/tấn, giảm 3,2% so với tháng 7. Đây là mức giảm mạnh nhất từ đầu năm 2022, đồng thời cũng là mức giá gạo thấp nhất trong 20 tháng qua.
Tổng cộng, trong 8 tháng đầu năm, Việt Nam đã xuất khẩu gần 4,8 triệu tấn gạo, trị giá hơn 2,33 tỷ USD, tăng lần lượt 20,7% và 10%. Tuy nhiên, giá xuất khẩu bình quân đạt 486,5 USD/tấn, giảm 13,2% so với cùng kỳ năm 2021.
Với diễn biến mới từ Ấn Độ, nhiều dự báo cho rằng gạo Việt Nam sẽ tăng cả lượng và giá xuất khẩu trong thời gian tới.
Theo ông Nguyễn Văn Thành - Giám đốc Công ty Phước Thành IV, đây là tin vui đối với Việt Nam cũng như nhiều quốc gia khác xuất khẩu gạo khác.
“Các hợp đồng mới có thể sẽ được đàm phán với giá tốt hơn hoặc nếu không thì doanh nghiệp sẽ tạm trữ để theo dõi tình hình thế giới, nhu cầu của các thị trường ra sao”, ông Thành nói.
Theo ông Thành, Việt Nam và Thái Lan đang hết vụ chính nên nguồn cung không còn nhiều. Vì thế, các doanh nghiệp phải cẩn thận hơn trong việc bán hàng để tránh rủi ro khi bán giá rẻ.
Việt Nam cần nắm bắt cơ hội
Ông Phạm Thái Bình, Giám đốc Công ty Cổ phần Nông nghiệp công nghệ cao Trung An (TAR), cho rằng gạo Việt Nam sẽ hưởng lợi một phần trong bối cảnh giá gạo thế giới tăng.
Ông Bình phân tích, động thái của Ấn Độ sẽ làm cho tình hình giá lương thực thế giới càng tăng cao vì xuất khẩu áp thuế 20%, đồng nghĩa người mua hàng sẽ phải gánh chịu phần tăng này trong giá mua gạo.
“Giá lương thực, cụ thể là giá gạo thế giới sẽ tăng lên và đây sẽ là cơ hội cho gạo Việt Nam cũng như nhiều quốc gia khác khi giá gạo xuất khẩu sẽ tăng cao theo”, Giám đốc TAR nhận định.
Ông Phan Văn Có cho biết, Vrice khá bất ngờ ra trước thông tin Ấn Độ hạn chế xuất khẩu gạo. Theo ông Có, chỉ mới cách đây không lâu, Bộ trưởng Bộ Lương thực Ấn Độ Sudhanshu Pandey đã khẳng định, Ấn Độ không có ý định siết chặt việc xuất khẩu gạo vì lượng dự trữ dồi dào.
Ông Có cũng cho rằng, động thái của Ấn Độ sẽ khiến nhiều khách hàng chuyển sang lựa chọn gạo Việt Nam và Thái Lan.
Tuy nhiên, để nắm bắt cơ hội, các doanh nghiệp cần chuẩn bị nguồn hàng và chào giá thống nhất, tương đồng nhau để đưa giá gạo tăng lên, mang về giá trị xuất khẩu cao.
Thương vụ Việt Nam tại Ấn Độ, Bộ Công Thương cho biết, việc Ấn Độ cấm xuất khẩu gạo tấm (nguyên liệu sản xuất thức ăn chăn nuôi) sẽ khiến giá thức ăn chăn nuôi tăng lên. Trước đó, năm 2021, Việt Nam đã nhập 433.000 tấn gạo tấm nên cũng ít nhiều chịu ảnh hưởng về nguồn cung.
Vậy nên, các doanh nghiệp Việt Nam đã ký hợp đồng với đối tác Ấn Độ được khuyến nghị nên nhanh chóng liên hệ với họ để kiểm tra tình trạng giao hàng, đàm phán lại hợp đồng của những lô hàng chưa xuất khẩu.
Lo lắng ở một góc độ khác, theo ông Phạm Thái Bình, hiệu ứng từ Ấn Độ chưa chắc có thể được doanh nghiệp Việt tận dụng bởi thực tế có một bộ phận nhà xuất khẩu thường tranh nhau, hạ giá bán khiến gạo Việt Nam không theo kịp xu hướng tăng của thị trường gạo thế giới.
“Trong khi tình hình lương thực thế giới đối diện nguy cơ thiếu hụt do ảnh hưởng dịch COVID-19, xung đột Nga - Ukraina, lương thực là một trong những mặt hàng tăng giá cao trên thế giới nhưng giá gạo Việt Nam gần đây lại không tăng, thậm chí là đi xuống”, chuyên gia quan ngại.
Theo ông Bình, điều này sẽ là cản trở cho sự tăng trưởng của ngành hàng. Do đó, quan trọng là doanh nghiệp cần chủ động từ sản xuất đến tiêu thụ, không nên kìm hãm giá gạo mà hãy “để nó chảy đúng theo dòng chảy thị trường”.
Trong khi đó, ông Phan Văn Có cho rằng, khả năng trong 2 - 3 tháng tới, khi Ấn Độ thu hoạch xong vụ mới, quốc gia này sẽ xuất khẩu bình thường trở lại do lượng hàng cũ cần tiêu thụ và xuất khẩu vẫn là nguồn thu ngoại tệ quan trọng của họ. Do đó, việc tận dụng cơ hội này nằm ở khả năng nội tại của mỗi doanh nghiệp và tất cả đều cần cố gắng hơn nữa.