Những thách thức thời đại buộc Việt Nam phải tìm kiếm và áp dụng một mô hình kinh tế mới theo hướng bền vững và khôn ngoan hơn trong tương lai. Theo chuyên gia, bài học mà nền kinh tế Đài Loan để lại là rất đáng tham khảo.
Bài học Đài Loan – con hổ châu Á
Tạp chí Nhịp cầu Đầu tư đăng tải phân tích mang tiêu đề "Đua theo hổ châu Á", dẫn quan điểm của một số chuyên gia cho rằng, Việt Nam có thể học tập mô hình của Đài Loan, trong đó thúc đẩy các doanh nghiệp vừa và nhỏ để phát triển.
Trong thế kỷ XX, Đài Loan là một trong những "nền kinh tế mới công nghiệp hóa" (NIEs) đầu tiên ở Đông Á. Quốc gia này liên tục đạt tốc độ tăng trưởng 6-8%, qua đó trở thành nền kinh tế có thu nhập cao dù có xuất phát là nền kinh tế nông nghiệp.
Đài Loan vượt qua cuộc khủng hoảng tiền tệ châu Á năm 1999 nhờ dự trữ ngoại hối dồi dào và nợ nước ngoài thấp. Trong cuộc khủng hoảng toàn cầu năm 2008, Đài Loan nhanh chóng hồi phục với GDP tăng 11% năm 2010 và 5% trong năm 2011.
Câu hỏi đặt ra là, điều gì đã tạo nên sức mạnh và sự ổn định cho nền kinh tế Đài Loan?
Hãy quay về thời điểm nửa thế kỷ XX. Giáo sư Lawrence J. Lau (Đại học Stanford) cho rằng, một nhân tố giúp Đài Loan phát triển ổn định chính là nhờ một chính phủ khôn ngoan, nhạy bén.
Ngay từ những năm 1950, những lãnh đạo của hòn đảo này đã đưa ra hàng loạt chính sách đúng đắn để đưa đất nước phát triển rực rỡ sau này. Những chính sách đó có thể kể đến như: cải cách đất đai, nâng cao năng suất nông nghiệp, thúc đẩy phân phối thu nhập hiệu quả hơn và giải phóng nguồn lực tiết kiệm để đầu tư vào công nghiệp có giá trị cao hơn.
Giới lãnh đạo Đài Loan còn duy trì chính sách ổn định kinh tế vĩ mô nhằm đạt được sự cân bằng trong thanh toán và tăng cường tiết kiệm trong nước. Nhờ đó, Đài Loan không đi theo vết xe đổ như "Thập niên mất mát" của Nhật hay bong bóng bất động sản ở Hồng Kông.
Dù khá nghèo về tài nguyên, Đài Loan đã rất khôn ngoan khi ưu tiên thúc đẩy lĩnh vực công nghệ cao. Kết quả, hòn đảo này hiện đang nằm trong số các nền kinh tế dẫn đầu thế giới về lĩnh vực bán dẫn, vật liệu then chốt để điều khiển smartphone, vi tính, ô tô, máy bay, tên lửa và nhiều loại máy móc phức tạp khác.
Đài Loan đặt xuất khẩu là trụ cột trong chiến lược phát triển. Từ những mặt hàng đầu tiên là chuối và đường, Đài Loan dần thâm nhập sâu rộng vào thị trường thế giới với nhiều sản phẩm danh tiếng, gồm có hàng dệt may, giày dép, thiết bị gia dụng, tivi, bảng mạch in và xe đạp.
Đài Loan ngày hôm nay đang nắm trong tay nhiều tên tuổi lớn hàng đầu thế giới. Chẳng hạn, TSMC là ông vua ngành bán dẫn. Foxconn là ông trùm chế tạo smartphone. China Steel thuộc top đầu ngành thép. Đài Loan cũng nổi tiếng với công nghệ 3D, robot, cơ khí chính xác, trí tuệ nhân tạo đi kèm hệ sinh thái phụ trợ sống động.
Hiện nay, Đài Loan chiếm đến 80% thị phần toàn cầu về máy tính xách tay và bo mạch chủ, 60% thị phần thiết bị mạng. Hòn đảo này là nhà xuất khẩu máy công cụ lớn thứ 5 với tỉ lệ hiệu suất chi phí cao. Các doanh nghiệp Đài Loan hiện cung ứng cho các ông lớn như Adidas, Nike, Lululemon và Under Armour. Trà sữa trân châu của Đài Loan cũng là thức uống nổi tiếng khắp thế giới.
Tại Đài Loan, khu vực kinh tế tư nhân được coi trọng, là trụ cột của kinh tế thay vì khu vực công. Hàn Quốc đã học tập mô hình này, ứng dụng vào đề án cải cách kinh tế thập niên 1960 khi khu vực tư nhân được phép trở thành đầu tàu dẫn dắt tiến trình công nghiệp hóa.
"Đầu tư vào vốn vô hình, gồm vốn con người và R&D, có thể giúp duy trì tăng trưởng kinh tế sau khi tích lũy đủ tài sản hữu hình", - Giáo sư Lawrence J. Lau nhận định.
Những năm gần đây, Đài Loan nỗ lực chuyển đổi kinh tế từ công nghiệp sang kinh tế dịch vụ, ưu tiên thúc đẩy các lĩnh vực có giá trị gia tăng cao, sức sáng tạo và kinh tế tri thức để bù đắp cho lực lượng lao động dần thu hẹp.
Các công ty Đài Loan ngày càng gia tăng thuê ngoài đối với những hoạt động có giá trị gia tăng thấp, cũng như duy trì khoản đầu tư mạnh mẽ cho nghiên cứu. Nhờ vậy, họ vẫn duy trì vị thế vững chắc trong cuộc cạnh tranh toàn cầu. Chẳng hạn như, ở ngành điện tử, Đài Loan đang dần dịch chuyển từ mô hình OEM/ODM sang EMS (dịch vụ thiết kế, sản xuất điện tử).
Năm 2011, Diễn đàn Kinh tế Thế giới cho rằng Đài Loan đã chính thức bước vào giai đoạn tăng trưởng dựa trên sáng tạo (innovation-driven state). Năm 2020, khu vực dịch vụ chiếm hơn 60% GDP của hòn đảo này, công nghiệp chiếm khoảng 36%, trong khi nông nghiệp chỉ chiếm chưa đến 2%.
Tinh thần học hỏi, chuyển giao công nghệ và phát triển R&D bản địa đóng vai trò cho sự phát triển của Đài Loan. Cần chú ý, Đài Loan được xem là có tỉ lệ tiết kiệm cao, chính sách giáo dục hợp lý và tầm nhìn xa, định hướng xuất khẩu. Cơ cấu công nghiệp chủ yếu bao gồm các doanh nghiệp nhỏ và một chính phủ tích cực thúc đẩy giáo dục, thực hiện các khoản đầu tư dài hạn, rủi ro cao.
Trong mảng công nghệ, Đài Loan đang nuôi mông xây dựng một “Thung lũng Silicon châu Á”, bằng cách phát triển nhiều công viên khoa học, khu vực và những thành phố thông minh.
Hòn đảo này đã bắt đầu phát triển cơ sở hạ tầng hướng tới tương lai với giá trị khoảng 15 tỉ USD, tập trung đầu tư vào một loạt ngành công nghiệp như đường sắt, cơ sở hạ tầng kỹ thuật số, môi trường nước, an toàn thực phẩm, năng lượng xanh, phát triển đô thị - nông thôn, đào tạo tài năng và việc làm.
Ảnh hưởng to lớn từ Nhật Bản
Nói đến những thành tựu đáng nể của Đài Loan, không thể không nhắc tới tầm ảnh hưởng của "yếu tố Nhật". Không ngạc nhiên vì Đài Loan từng bị người Nhật cai trị (1895-1945), và khi họ rời đi, một số di sản về phát triển kinh tế, con người vẫn ở lại với người dân Đài Loan.
Người Nhật bắt đầu phát triển công nghiệp ở Đài Loan từ cuối thế kỷ XIX, ngay sau khi chiếm đóng hòn đảo này. Tốc độ công nghiệp hóa thậm chí còn cao hơn cả trong Thế chiến thứ nhất. Thể chiến thứ hai đã tạo thêm động lực thúc đẩy sản xuất trên đảo, bao gồm việc thành lập một số ngành công nghiệp nặng.
Khi đó, Nhật Bản dự định biến Đài Loan thành một “thuộc địa kiểu mẫu” với nỗ lực cải thiện nền kinh tế, xây dựng cảng biển, đường sắt, thiết lập một số ngành công nghiệp hiện đại, đầu tư vào hệ thống y tế, giáo dục và du nhập văn hóa Nhật vào hòn đảo.
Đến năm 1945, Nhật chấm dứt cai trị Đài Loan với một hiệp ước ký với khối Đồng minh. Tuy nhiên, chính phủ Đài Loan đã tận dụng triệt để cơ sở hạ tầng mà người Nhật để lại để phát triển kinh tế sau này. Từ cuối những năm 1950, Đài Loan bùng nổ tăng trưởng với tốc độ khoảng 12%/năm. Năng lực sản xuất thậm chí còn nhanh hơn trong những năm 1960 và 1970, với tốc độ chưa từng có trong lịch sử thế giới.
Cùng với Hồng Kông, Singapore và Hàn Quốc, Đài Loan đã nỗ lực học hỏi con đường phát triển của Nhật. Giai đoạn đầu, Đài Loan khởi xướng chiến lược xuất khẩu giá rẻ, bắt đầu bằng ngành dệt may. Nguyên nhân là vì ngành này đòi hỏi ít vốn đầu tư nhưng cần một số lượng lớn công nhân có tay nghề thấp, sẵn sàng làm việc nhiều giờ để lắp ráp quần áo may sẵn.
Những con hổ châu Á theo đó dần chiếm lĩnh thị trường xuất khẩu và thay thế Nhật nhờ giá rẻ hơn đối thủ. Kết quả, Nhật Bản phải từ bỏ ngành dệt may vào năm 1960 và tập trung vào các ngành công nghiệp khác cao cấp hơn.
Thập niên 1970, Đài Loan một lần nữa đi theo con đường của người Nhật trong lĩnh vực điện tử. Radio, tivi, máy may và xe máy của Đài Loan dần thắng thế các công ty Nhật trên thị trường toàn cầu nhờ giá rẻ. Đến những năm 1980, Đài Loan và Hàn Quốc tiếp tục lấn sân và cạnh tranh trong các ngành công nghệ cao với Nhật trong mảng sản xuất máy tính và công nghệ sinh học.
Phải thay đổi: Bài học Đài Loan
Tháng 10/2022, Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) công bố số liệu cho thấy thu nhập bình quân đầu người của Đài Loan tăng cao hơn 2 nước hàng đầu Đông Á là Hàn Quốc (33.590 USD, giảm 4% so với năm 2021) và Nhật Bản (34.360 USD, giảm 12% so với năm 2021).
Đặc biệt, Đài Loan còn xuất hiện trong danh sách tài sản cá nhân lớn hàng đầu thế giới (net financial assets per capita) theo một đánh giá của Allianz. Ước tính trung bình, con số tài sản ròng của một người Đài Loan là 138.220 euro, cao hơn một chút so với người Singapore (134.150 euro).
Bài học Đài Loan là rất giá trị cho nhiều nền kinh tế trong khu vực, trong đó có Việt Nam. Đặc biệt, động lực chính thúc đẩy sự thành công của "mô hình Đông Á" nay đã không còn. Tốc độ tăng trưởng dân số, tăng trưởng kinh tế toàn cầu đang chậm lại, qua đó ảnh hưởng trực tiếp đến tốc độ tăng trưởng thương mại. Các quốc gia lấy xuất khẩu là động lực tăng trưởng kinh tế sẽ không còn gặt hái được nhiều thành công. Khi ngàng càng nhiều quốc gia tiếp tục chọn xuất khẩu làm động lực tăng trưởng kinh tế, sự cạnh tranh sẽ chỉ càng trở nên gay gắt hơn.
Hơn 2 thập niên qua, Việt Nam là hiện tượng thú vị của châu Á khi duy trì đà tăng trưởng cao liên tục. Tuy nhiên, giáo sự David Dapice đến từ Đại học Harvard cho rằng, mô hình này đang đứng trước nguy cơ lạc nhịp. Chẳng hạn, giá trị gia tăng từ xuất khẩu tạo ra bởi khối doanh nghiệp trong nước còn thấp. Năng suất ngành sản xuất trên một đơn vị lao động tăng chậm hơn so với mức trung bình của nền kinh tế trong giai đoạn 2016-2021.
Tỉ trọng đóng góp của khối tư nhân chỉ chiếm 10-11% GDP, tức chỉ bằng 1/3 của Thái Lan và thấp hơn nhiều so với Trung Quốc (60%). Nguồn lao động dồi dào ở nông thôn, vốn là nguồn cung ứng lao động chính cho sản xuất và dịch vụ, đang cạn dần. Chu kỳ thu hút FDI dựa trên thế mạnh về lao động dồi dào đang đi đến hồi kết.
Ngân hàng HSBC vừa qua đã đưa ra nhận định, kinh tế Việt Nam có thể gặp nhiều thách thức trong năm 2023, nhất là các rủi ro của thị trường xuất khẩu. Có thể thấy được điều này, khi xuất khẩu tháng 11 giảm 7,4% so với cùng kỳ năm trước. Đây là mức giảm nhiều hơn so với dự báo của HSBC và thị trường.
"Đây là lần đầu tiên trong vòng 2 năm Việt Nam ghi nhận mức sụt giảm đáng kể so với cùng kỳ năm trước trong tăng trưởng xuất khẩu, chủ yếu do tình hình suy giảm ở tất cả các lĩnh vực", - báo cáo của ngân hàng này cho biết.
Theo ông David Dapice, giai đoạn nhạy cảm sắp tới có thể là "thời khắc quyết định triển vọng dài hạn". Để tiếp tục duy trì sự hứng khởi, Việt Nam có thể phải tìm một mô hình mới mẻ hơn.
"Việt Nam đang có khoảng thời gian 5-7 năm để điều chỉnh mô hình tăng trưởng", - ông nói thêm.
Theo vị giáo sư, Việt Nam cần tiếp tục mở cửa nền kinh tế và mở rộng tiếp cận các không gian tự do thương mại mới. Đặc biệtm cần cải thiện năng suất lao động trong mọi lĩnh vực sản xuất và kinh tế.
"Chiến lược phát triển của Việt Nam có thể học tập mô hình của Đài Loan, trong đó thúc đẩy các doanh nghiệp vừa và nhỏ có năng lực dưới sự hỗ trợ của Chính phủ. Việt Nam đồng thời có thể bắt tay với các doanh nghiệp FDI lớn để trở thành nhà cung ứng có tính cạnh tranh", - chuyên gia khuyến nghị.
Hiện nay, Việt Nam là một quốc gia đang phát triển với nền tảng công nghệ và sức sáng tạo khiêm tốn. Sẽ không thể trong một sớm một chiều để đưa Việt Nam trở thành một quốc gia công nghiệp và thịnh vượng, mà cần một giai đoạn chuyển đổi sâu rộng, học tập hình mẫu đi trước tương tự như câu chuyện của Đài Loan.
Một tín hiệu tích cực là Việt Nam đang nổi lên như đích đến của các tập đoàn công nghệ đa quốc gia như Samsung, Apple với mong muốn giảm bớt sự lệ thuộc vào Trung Quốc.
VinaCapital cho rằng, FDI hướng tới công nghệ cao sẽ hỗ trợ lĩnh vực sản xuất, đồng thời thúc đẩy gia tăng mức độ phức tạp của các sản phẩm được sản xuất tại Việt Nam. Đây là yếu tố quan trọng nhất tạo ra động lực tăng trưởng cho nền kinh tế của một quốc gia đang phát triển, theo một nghiên cứu mới được công bố của Đại học Harvard.
Ngoài ra, một số doanh nghiệp trong nước đang có dấu hiệu chuyển hướng vào các lĩnh vực mới có tiềm năng tạo giá trị gia tăng lớn hơn như công nghệ cao, thay vì tập trung vào khía cạnh gia công cho các tập đoàn đa quốc gia hay khai thác nguồn tài nguyên sẵn có (khoáng sản, đất đai).
Xe VF8 và VF9 của VinFast
© Ảnh : Vingroup
Một ví dụ điển hình là gần đây, hãng xe VinFast đang theo đuổi chiến lược xây dựng thương hiệu ô tô của riêng mình. Trong khi đó, những tập đoàn lớn khác như Viettel hay FPT cũng đã thành lập các bộ phận phát triển vi mạch điện tử.
Một điểm chung đáng chú ý là trong khi Tập đoàn TSMC công bố đầu tư hàng tỉ USD vào tổ hợp sản xuất chip tại Mỹ, thì thương hiệu ô tô non trẻ VinFast cũng theo đuổi dự án nhà máy 4 tỉ USD chế tạo xe điện tại ở Bắc Carolina để phục vụ khách hàng Mỹ. Công ty này còn có kế hoạch IPO và niêm yết trên sàn chứng khoán Nasdaq nhằm xây dựng thương hiệu và huy động thêm vốn để vươn ra thế giới.
Với cách làm này, VinFast đang gia tăng chuỗi giá trị toàn cầu, học hỏi kinh nghiệm, nắm bắt công nghệ, phát triển thương hiệu và dần tiến lên nấc thang cao hơn trong chuỗi giá trị ngành sau này. Đây chính là doanh nghiệp tiêu biểu cho định hướng "Make in Vietnam", trong bối cảnh Việt Nam đang nổi lên trở thành một trung tâm sản xuất mới tại khu vực.
Chiến lược mà những doanh nghiệp như VinFast đang theo đuổi cho thấy “đường tắt” của doanh nghiệp Việt Nam trong quá trình dịch chuyển xu hướng kinh tế toàn cầu. Ở đó, Việt Nam đang lệ thuộc rất lớn vào thương mại, khi mà tổng kim ngạch thương mại chiếm trên 200% GDP. Trong bối cảnh đó, Việt Nam phải chuyển đổi mô hình phát triển kinh tế theo hướng khôn ngoan và bền vững hơn.