Trong 3 năm liên tục, hai ông Lê Đức Thọ và Henry Kissinger đã trải qua hàng chục phiên đàm phán để chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam.
Ông Lê Đức Thọ và Kissinger
Từ năm 1969, cuộc đàm phán bốn bên tại Paris đã bắt đầu nhưng rồi rơi vào bế tắc với các phiên công khai. Để tháo gỡ, Mỹ và Hà Nội đã sắp xếp kênh bí mật để thảo luận, mà hai ông Lê Đức Thọ và Kissinger là những nhân vật chính.
Ông Lê Đức Thọ quê ở Nam Định, đã tham gia cách mạng từ thời niên thiếu, trải qua nhiều nhà tù từ Hỏa Lò đến Sơn La, Côn Đảo. Tết Mậu Thân 1968, ông vào tăng cường cho Trung ương Cục miền Nam. Chủ tịch Hồ Chí Minh sau đó đã cử ông làm cố vấn đặc biệt cho Trưởng đoàn ngoại giao Xuân Thủy tại đàm phán Paris. Thời điểm đó, ông Lê Đức Thọ 57 tuổi, là Ủy viên Bộ Chính trị.
Trong hồi ký của mình, Kissinger đã có những dòng viết về ông Lê Đức Thọ như: tóc hoa râm, đường bệ, bao giờ cũng mặc bộ đại cán xám hoặc marông, đôi mắt to và sáng. Đặc biệt, ông Thọ được miêu tả là người rất bình tĩnh, thái độ "cũng không có điều gì chê trách được, trừ một hai lần".
Cần nói thêm, thời điểm tham gia đàm phán, Kissinger là Cố vấn đặc biệt về an ninh quốc gia của Nhà Trắng, từng có thời gian giảng dạy tại Đại học Harvard, là nhà ngoại giao có tài và hiểu biết sâu về Việt Nam.
Cố vấn An ninh Quốc gia của Tổng thống Nixon Henry A. Kissinger và Đại diện Việt Nam Lê Đức Thọ tại Paris sau các cuộc đàm phán, 1973
© AP Photo / Michel Lipchitz
“Dân tộc tôi bị người ta lừa gạt nhiều rồi”
Lê Đức Thọ và Kissinger gặp nhau lần đầu ngày 21/2/1970, tại nhà 11 phố Darthé, Choisy-le-roi, Paris. Khi Kissinger đến, Trưởng đoàn đàm phán là ông Xuân Thủy ra đón và dẫn vào phòng khách nhỏ.
Nói về sự kiện này, VnExpress trích dẫn lời nhà ngoại giao Lưu Văn Lợi, thư ký của ông Lê Đức Thọ kể lại trong cuốn Các cuộc thương lượng Lê Đức Thọ và Kissinger tại Paris như sau:
"Đây là giây phút lịch sử. Hai con người hoàn toàn khác nhau về nguồn gốc xã hội, bản chất, lý tưởng chính trị, gặp nhau rồi cùng nhau bàn cãi quyết liệt trong ba năm để tìm giải pháp cho vấn đề Việt Nam".
Nhà ngoại giao Mỹ gửi lời xin lỗi vì đến muộn và đề nghị giữ bí mật cuộc gặp. Ông Kissinger cũng khẳng định Mỹ muốn đàm phán với thái độ thiện chí, nghiêm chỉnh. Mỹ không cứng nhắc và muốn chấm dứt chiến tranh thực sự chứ không phải chỉ trên lý thuyết.
Dù vậy, ông này lưu ý tình hình nước Mỹ có lợi hơn cho Nixon, trong khi tình hình miền Nam khó khăn hơn cho Hà Nội, đồng thời cho rằng Hà Nội cũng không còn sự ủng hộ của nhiều nước như trước.
Nhà ngoại giao Mỹ cho rằng sự tiến bộ trong đàm phán tùy thuộc vào việc không tăng cường bạo lực ở miền Nam. Sau khi chiến tranh chấm dứt, Mỹ sẽ giúp đỡ Việt Nam đổi mới, xây dựng lại đất nước và "sẽ không bao giờ là mối đe dọa cho nền độc lập của Việt Nam".
Trước khi kết thúc, Kissinger một lần nữa xin lỗi vì đã nói dài, nhưng “bồi” thêm rằng "giáo sư Đại học Harvard bao giờ cũng nói trong 55 phút".
Ngay trong chiều hôm đó, ông Lê Đức Thọ cho rằng Kissinger đã đánh giá không đúng thực tế chiến trường.
"Đó là quyền của ông. Suốt 15 năm qua, khi đánh giá tương quan lực lượng hai bên, các ông rất sai về chúng tôi", ông Lê Đức Thọ nói.
Đồng thời, vị đại diện của Việt Nam Dân chủ Cộng hoà cũng không quên nhắc nhở rằng kế hoạch Việt Nam hóa chiến tranh đã bắt đầu thất bại, đồng thời khẳng định dù Mỹ tiếp tục thế nào cũng không thay đổi được chiều hướng cuộc chiến.
"Dân tộc tôi bị người ta lừa gạt nhiều rồi, muốn giải quyết vấn đề thì phải thành thật", ông Thọ nói.
Trước khi kết thúc phần phát biểu của mình, ông Lê Đức Thọ đặt vấn đề:
"Trong hai con đường hòa bình và chiến tranh, các ông nên chọn lấy một. Nếu các ông chọn con đường hòa bình thì chúng ta có thể giải quyết vấn đề một cách hòa bình".
Bế tắc trong đàm phán
Đầu tháng 10/1972, Hà Nội đã hoàn tất dự thảo hiệp định Paris. Về cơ bản, hai ông Lê Đức Thọ và Kissinger thống nhất được nhiều điều khoản và dự tính mốc thời gian ký.
Khi nghe Kissinger nói sẽ đến Hà Nội để ký tắt, ông Thọ hài hước "có khi phải nhảy dù", vì lúc đó qua sông Hồng phải đi cầu phao. Tuy nhiên, Mỹ sau đó trì hoãn thực hiện và Kissinger cuối cùng cũng không đi Hà Nội như dự kiến.
Tại lần gặp gỡ vào tháng 11, Kissinger cố gắng làm dịu bầu không khí bằng lời mời ông Lê Đức Thọ đến giảng tại Đại học Harvard.
Về phần mình, ông Lê Đức Thọ đọc bài phát biểu được chuẩn bị sẵn dài 5 trang giấy, trong đó nêu thiện chí của Hà Nội và tố cáo sự lật lọng của Hoa Kỳ.
"Chúng tôi đã bị người Nhật, người Pháp, người Mỹ lừa dối, nhưng chưa bao giờ trắng trợn như lần này", ông Thọ gay gắt.
"Ông từng nói cần thiết phải hiểu biết và tin cậy lẫn nhau, rồi ông lật ngược đi thì ông nghĩ chúng tôi hiểu ông là người như thế nào?", nhà ngoại giao Việt Nam đặt câu hỏi cho Kissinger.
Ông Cố vấn Nhà Trắng thanh minh rằng, do cuộc chiến kéo dài nên khi đi đến gần giải pháp mới thấy những vấn đề phức tạp, chưa kịp nghĩ tới.
Dù hứa hẹn có thể làm xong phần lớn văn bản trong vòng một tuền, Kissinger đòi sửa lại hầu hết chương trong hiệp định, nhất là về ngừng bắn, rút quân, chính trị nội bộ miền Nam.
Theo đó, phía Hoa Kỳ đòi xóa tên Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam trong lời mở đầu và các chi tiết khác trong hiệp định; rút tất cả lực lượng không phải miền Nam khỏi miền Nam; không công nhận có hai chính quyền, hai quân đội, hai địa bàn ở miền Nam. Phía Mỹ cũng không đề cập gì về trách nhiệm hàn gắn vết thương chiến tranh ở Việt Nam.
Ông Lưu Văn Lợi cho biết, ông Lê Đức Thọ đã nhắc lại việc Nixon từng trao công hàm cho Hà Nội khẳng định hiệp định "xem như hoàn thành" và phê phán những luận điểm của Kissinger.
Cụ thể, ông Lê Đức Thọ nêu rõ vai trò của Chính phủ Cách mạng Lâm thời ở miền Nam và trên trường quốc tế. Trong nhiều năm liền, miền Nam đã có ba vùng, do chính quyền Sài Gòn, quân giải phóng kiểm soát và vùng tranh chấp. Việc Kissinger đòi xóa bỏ các vùng do Chính phủ Cách mạng lâm thời (quân giải phóng) kiểm soát là điều mà quân Mỹ và Sài Gòn không làm được từ trước đến nay, do đó đây là đòi hỏi hết sức vô lý.
Ông Thọ cũng bác bỏ việc Mỹ đòi quân miền Bắc rút khỏi miền Nam. Nhân dân Việt Nam có quyền chống xâm lược. Vì vậy, không thể đặt việc rút quân miền Bắc ngang hàng với rút quân Mỹ.
"Đặt vấn đề như vậy không chính đáng, trái đạo lý, chính trị, pháp lý", đại diện Hà Nội phản biện Kissinger.
Ông Thọ cũng giữ nguyên quan điểm Hà Nội thả tù binh Mỹ thì Sài Gòn thả hết cả nhân viên dân sự miền Nam còn bị giam giữ.
"Ông thấy thế giới có cuộc chiến tranh nào giữa các bên khi chấm dứt rồi, một bên trao trả người bị bắt, còn bên kia giữ lại không", ông Thọ tiếp tục chất vấn Kissinger.
Đáp lại, Kissinger cho biết đồng ý một số đề nghị của ông Lê Đức Thọ, nhưng giữa hai bên vẫn còn nhiều tranh cãi.
Cuối cùng, ông Thọ hỏi thẳng "các ông có muốn đàm phán nữa không, nếu ông cố vấn không muốn thì chúng tôi cũng thôi, mà muốn bàn nữa thì chúng tôi bàn, "nhưng phải có đi có lại".
“Hào quang trận Điện Biên phủ trên không”
Ngày 18/12/1972, khi ông Lê Đức Thọ vừa từ sân bay Gia Lâm về tới nhà thì máy bay B-52 của Mỹ bắt đầu dội bom xuống Hà Nội, Hải Phòng và nhiều thành phố khác. Tuy vậy, kế hoạch đánh bom nhằm lật ngược tình thế của Nixon đã thất bại thảm hại, và các cuộc gặp giữa ông Lê Đức Thọ và Kissinger tiếp tục được nối lại đầu năm 1973.
"Cố vấn Lê Đức Thọ tới Paris trong hào quang trận Điện Biên phủ trên không", ông Lưu Văn Lợi cho biết.
Không như lần trước, đoàn Việt Nam không ra đón Kissinger ngoài cổng. Sau 12 ngày đêm khói lửa trên bầu trời Hà Nội, phía Hà Nội biểu thị sự lạnh nhạt với người Mỹ.
"Các ông lấy cớ đàm phán gián đoạn để ném bom miền Bắc Việt Nam lúc tôi vừa về đến nhà. Hành động của các ông trắng trợn và thô bạo. Các ông tưởng làm như vậy có thể khuất phục được chúng tôi, nhưng các ông nhầm. Chính các ông làm cho đàm phán khó khăn, danh dự nước Mỹ hoen ố", ông Thọ phê phán Mỹ.
Biện minh cho hành động của Mỹ, Kissinger cho rằng, cách đàm phán của Hà Nội cuối năm 1972 khiến Washington cho rằng muốn kéo dài, không giải quyết vấn đề.
Trước đề nghị của Kissinger về việc thôi không chỉ trích nữa, ông Thọ đáp trả:
"Tôi kiềm chế lắm rồi, chứ dư luận thế giới, nhà báo và các nhân vật ở Mỹ còn dùng câu chữ dữ dội hơn nhiều".
Cách ký hiệp định là vấn đề kỹ thuật, nhưng cả bốn bên tham gia đàm phán đều cùng quan tâm. Ông Lê Đức Thọ yêu cầu hai bên ký và bốn bên ký. Phía Kissinger không đồng ý, đề ra 3 phương án nhưng đều không có tên Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam.
Cuối cùng, Kissinger đề nghị hai bên ký, bốn bên ký nhưng trong bản bốn bên thì mỗi bên ký một tờ riêng biệt và cả bốn tờ gộp chung vào hiệp định, mỗi người tham gia ký đều ghi chức vụ. Phương án này được chấp nhận.
Ông Lê Đức Thọ cũng đề nghị thêm về Nghị định thư về bồi thường. Kissinger hứa, Hoa Kỳ sẽ đóng góp vào hàn gắn vết thương chiến tranh, nhưng không nên có Nghị định thư khi tù binh Mỹ chưa được thả và số tiền cũng cần được Quốc hội thông qua. Do đó, hai bên sẽ trao công hàm và bàn sau. Ông Lê Đức Thọ đồng ý.
Trong buổi họp cuối hôm 13/1/1973, Kissinger đề nghị lễ ký không đọc diễn văn và chỉ chúc từng người bên ngoài. Đó là ngày trang trọng ở Mỹ, và ở Việt Nam càng trang trọng hơn.
"Vì vậy, chúng ta nên khởi đầu với thái độ hòa giải, quảng đại, nồng nhiệt với nhau", Kissinger nói và ông Thọ cũng đồng ý như vậy.
Kết thúc ngày họp cuối, hai đoàn ăn cơm chung. Ông Lê Đức Thọ nâng cốc với Kissinger, cho biết "đây là kết quả bước đầu nhưng rất quan trọng và cơ bản để lập lại hòa bình ở Việt Nam".
"Đến lúc này hòa bình sẽ trở lại Đông Dương, với hai dân tộc chúng ta vào ngày ký hiệp định", Kissinger đáp lại.
Ngày 23/1/1973, sau khi ký tắt hiệp định Paris, Kissinger trao bút cho ông Lê Đức Thọ và nói "tôi tặng ông cây bút này để nhớ mãi ngày lịch sử". Để trả lễ, ông Lê Đức Thọ cũng tặng lại Kissinger cây bút của mình, đồng thời dặn "ông ký rồi phải giữ lời nhé".
Từ chối giải Nobel Hoà bình
Sáng 27/1, lễ ký kết Hiệp định Paris chính thức diễn ra tại trung tâm Hội nghị quốc tế Kléber.
Đúng 10h, Bộ trưởng Ngoại giao Việt Nam Dân chủ Cộng hòa Nguyễn Duy Trinh; Bộ trưởng Ngoại giao Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam Nguyễn Thị Bình; Ngoại trưởng Mỹ William P. Rogers; Bộ trưởng Ngoại giao Việt Nam Cộng hòa Trần Văn Lắm đã ký vào văn bản hiệp định.
Chiều cùng ngày, Bộ trưởng Nguyễn Duy Trinh và Ngoại trưởng William P. Rogers tiến hành ký hiệp định và các nghị định thư. Sau mỗi lễ ký, các bên nâng champagne chúc mừng cho hòa bình được lập lại ở Việt Nam.
Hiệp định Paris có 9 chương, 23 điều. Về chính trị, Mỹ cam kết tôn trọng các quyền dân tộc cơ bản, tôn trọng quyền tự quyết của nhân dân miền Nam Việt Nam. Hoa Kỳ cũng không tiếp tục dính líu quân sự, không can thiệp công việc nội bộ của miền Nam Việt Nam.
Về quân sự, ngừng bắn, Mỹ rút hết quân trong 60 ngày. Đồng thời, chấm dứt bắn phá miền Bắc, cũng như nhận tháo gỡ mìn do Mỹ đã rải ở miền Bắc.
Về nội bộ miền Nam, các bên thống nhất nguyên tắc hòa hợp dân tộc, bảo đảm tự do dân chủ, tổ chức tổng tuyển cử tự do, thành lập Hội đồng quốc gia hòa giải, hòa hợp dân tộc gồm ba thành phần để tổ chức tổng tuyển cử.
Bên cạnh đó, Mỹ sẽ đóng góp hàn gắn vết thương chiến tranh ở Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Sau khi hiệp định Paris được ký kết ngày 27/1/1973, hai ông Lê Đức Thọ và Kissinger được trao giải Nobel Hòa bình. Tuy nhiên, ông Thọ đã từ chối nhận giải vì lý do, Mỹ là bên gây chiến tranh xâm lược ở Việt Nam.
Ông Lê Đức Thọ cho rằng, một bên đi xâm lược, một bên chống lại quân xâm lược để giải phóng dân tộc mình thì không thể cùng chia nhau giải Nobel hòa bình. Ngoài ra, hòa bình cũng chưa thực sự hiện diện ở Việt Nam, và đất nước vẫn còn đang chia cắt.