Trong số đó, 2 loại đứng thứ hai (đất hiếm và bô xít), 1 loại đứng thứ ba (vonfram) và 1 loại đứng thứ năm (fluorit) trên toàn cầu.
Hiện Việt Nam xếp thứ 15 trên thế giới về diện tích khoáng sản, xếp thứ 65 về tuổi địa chất, có 60/200 loại khoáng sản phổ biến trên thế giới, theo kết quả điều tra của ngành địa chất, Bộ TN&MT.
Đất hiếm – thứ hai thế giới
Đất hiếm là một loại khoáng sản đặc biệt. Với trữ lượng khoảng 22 triệu tấn, Việt Nam đứng thứ hai trên thế giới về trữ lượng đất hiếm.
Các mỏ đất hiếm chủ yếu tập trung ở vùng Tây Bắc của Việt Nam, nơi có những điều kiện tự nhiên thuận lợi cho việc hình thành và phát triển các nguồn tài nguyên khoáng sản này. Những mỏ đất hiếm như Đông Pao, Nam Nậm Xe, Bắc Nậm Xe, Yên Phú đã được thăm dò và xác định giá trị kinh tế.
Đất hiếm là khoáng sản chiến lược, có giá trị đặc biệt không thể thay thế và đóng vai trò cực kỳ quan trọng trong các lĩnh vực từ điện tử, kỹ thuật nguyên tử, chế tạo máy, công nghiệp hóa chất, đến lĩnh vực luyện kim và cả chăn nuôi trồng trọt. Đất hiếm được dùng để sản xuất các chất xúc tác, nam châm, hợp kim, bột mài, gốm, chất phát quang…
Nó còn dùng để chế tạo các máy điện thoại di động, ổ đĩa cứng máy tính.... Nhiều nước coi đất hiếm là vàng của thế kỷ XXI, thậm chí của cả thế kỷ XXII. Các nhà khoa học thì gọi đất hiếm là những nguyên tố của tương lai.
Bô xít – thứ hai thế giới
Bô xít là loại khoáng sản khác tại Việt Nam có trữ lượng đứng thứ hai trên thế giới, với khoảng 5,8 triệu tấn, theo Cục Khảo sát địa chất Mỹ.
Bộ Tài nguyên và Môi trường cho biết, quặng bô xít ở Việt Nam có hai loại chính, gồm bô xít nguồn gốc trầm tích phần lớn nằm ở các tỉnh phía Bắc như Hà Giang, Cao Bằng, Lạng Sơn, Bắc Giang, Sơn La và Nghệ An.
Bô xít nguồn gốc phong hóa laterit từ đá bazan tập trung ở các tỉnh phía Nam như Kon Tum, Đắk Nông, Lâm Đồng, Đồng Nai, Bình Dương, Phú Yên và Quảng Ngãi. Dù quặng bô xít phân bổ khá đều trên cả nước, quặng bô xít ở Tây Nguyên được nhà nước chú trọng tập trung khai thác.
Đắk Nông là tỉnh có trữ lượng bô xít lớn nhất cả nước. Sở Khoa học và Công nghệ tỉnh Đắk Nông cho biết, tỉnh có tiềm năng phát triển công nghiệp Alumin, luyện nhôm lớn nhất Việt Nam.
Tỉnh Đắk Nông sở hữu nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú và đa dạng, với 218 mỏ và điểm mỏ, gồm 16 loại khoáng sản có trữ lượng lớn, giá trị kinh tế cao.
Bô xít là loại quặng nhôm nguồn gốc đá núi lửa có màu hồng, nâu được hình thành từ quá trình phong hóa các đá giàu nhôm hoặc tích tụ từ các quặng có trước bởi quá trình xói mòn. Nó thường được sử dụng làm lò cao, môi (giá) sắt/thép, ximăng, sản xuất nhôm, phễu rót kim loại lỏng, hồ ngâm vật liệu, lòng lò nung, torpedo cars vòm lò cao sử dụng điện...
Vonfram – thứ ba thế giới
Theo dữ liệu từ Cục Khảo sát Địa chất Mỹ (USGS), Việt Nam là quốc gia có trữ lượng vonfram cao thứ ba thế giới với 95.000 tấn, sau Nga (400.000 tấn) và Trung Quốc (1,9 triệu tấn).
Thái Nguyên là tỉnh có trữ lượng vonfram lớn nhất Việt Nam. Cổng thông tin điện tử tỉnh Thái Nguyên cho biết, địa phương có nguồn tài nguyên khoáng sản đa dạng với trên 200 điểm mỏ, gồm nhiều loại khoáng sản như: Vonfram, than, sắt, thiếc, chì, kẽm...
Đáng chú ý, Thái Nguyên là địa phương có mỏ vonfram đa kim trữ lượng lớn nhất cả nước và lớn thứ ba thế giới ở khu vực Núi Pháo (huyện Đại Từ).
Ngày nay, vonfram được dùng làm vật liệu chống mài mòn, sử dụng trong các ngành công nghiệp gia công kim loại, khai thác mỏ, dầu khí và xây dựng. Kim loại này gần như không thể thay thế trong một số lĩnh vực công nghiệp như sản xuất máy hiệu suất cao và hợp kim thép.
Bên cạnh đó, vonfram còn được sử dụng trong các ngành công nghiệp như ô tô, năng lượng, xây dựng, hàng không vũ trụ cũng như các ứng dụng quân sự, hàng không và sản xuất điện.
Theo Nhịp sống kinh tế dẫn ý kiến một chuyên gia luyện kim màu, Việt Nam đang có vị thế đáng nể sẵn sàng cạnh tranh trực tiếp với Trung Quốc về vonfram.
Fluorit – thứ năm thế giới
Theo Cục Khảo sát địa chất Mỹ, Việt Nam có trữ lượng fluorit đạt khoảng 5 nghìn tấn, đứng thứ 5 thế giới.
Fluorit là khoáng vật thuộc nhóm Halozenua; là khoáng vật rất dễ nóng chảy nên chúng thường được dùng làm chất trợ dung trong lò cao.
Khoáng vật này được sử dụng làm phụ gia trong luyện kim, sản xuất hóa mỹ phẩm và chất phụ gia trong nhà máy xi măng; dùng trong sản xuất axit flohidric, làm men tráng trong nghề gốm; fluorite trong suốt tinh thể lớn được dùng làm dụng cụ quang học.
Hiện nay, ở Việt Nam, quặng fluorit tập trung chủ yến ở Lào Cai, Lai Châu, Phú Yên…
Chiến lược cụ thể
Với trữ lượng khoáng sản lớn và trù phú, đặc biệt là một số loại khoáng sản quy mô trữ lượng đáng kể, tầm cỡ thế giới, có ý nghĩa chiến lược và là nguồn lực để phát triển kinh tế - xã hội, các nhà làm chính sách tại Việt Nam đã ban hành Nghị quyết về định hướng chiến lược địa chất, khoáng sản và công nghiệp khai khoáng đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045.
Theo đó, Bộ Chính trị đặt mục tiêu điều tra cơ bản địa chất, khoáng sản bảo đảm cung cấp đầy đủ thông tin, dữ liệu tin cậy về địa chất, khoáng sản, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh. Tài nguyên khoáng sản được quản lý chặt chẽ, khai thác, chế biến, sử dụng tiết kiệm, hiệu quả, gắn với nhu cầu phát triển của nền kinh tế, bảo vệ môi trường, thích ứng với biến đổi khí hậu và hướng tới mục tiêu đạt mức trung hoà carbon.
Đến năm 2025, lập bản đồ địa chất khoáng sản tỉ lệ 1:50.000 đạt 80% diện tích đất liền. Hoàn thành điều tra, đánh giá khoáng sản tại các khu vực có triển vọng ở Tây Bắc và Trung Trung Bộ; điều tra địa chất, khoáng sản biển tỉ lệ 1:500.000 tại một số khu vực đến độ sâu 300 và 1.500 mét nước. Thăm dò, khai thác, chế biến một số khoáng sản đạt trình độ khu vực, tiệm cận trình độ thế giới.
Đến năm 2030, lập bản đồ địa chất khoáng sản tỉ lệ 1:50.000 đạt 85% diện tích phần đất liền. Hoàn thành điều tra, đánh giá khoáng sản năng lượng, kim loại tại các khu vực có triển vọng ở Bắc Trung Bộ và Nam Trung Bộ; điều tra tai biến trượt lở, lũ quét tại các tỉnh miền núi có nguy cơ cao; điều tra, lập bản đồ địa chất môi trường các khu vực chứa khoáng sản độc hại, phóng xạ; khoanh định các cấu trúc địa chất sâu thuận lợi để hướng tới ứng dụng công nghệ chôn lấp các-bon và các chất độc hại khác. Hoàn thành hệ thống cơ sở dữ liệu, thông tin về địa chất, khoáng sản đồng bộ, tích hợp với cơ sở dữ liệu quốc gia. Thăm dò, khai thác, chế biến đối với hầu hết các khoáng sản đạt trình độ khu vực, tiệm cận trình độ thế giới.
Tầm nhìn đến năm 2045: Hoàn thành 100% việc lập bản đồ địa chất khoáng sản tỉ lệ 1:50.000 đối với diện tích đất liền và tỉ lệ 1:500.000 trên biển. Hoàn thành công tác điều tra cơ bản đối với các tài nguyên địa chất khác.
Việt Nam cũng tiến tới hình thành nền công nghiệp khai khoáng tiên tiến, hiện đại gắn với mô hình kinh tế tuần hoàn, kinh tế xanh tương đương với các nước tiên tiến khu vực châu Á.