Sau 34 năm, giá trị xuất khẩu của Việt Nam năm 2022 đạt 371,5 tỷ USD, tương đương mức tăng 367,82 lần, xếp thứ 2/10 trong ASEAN và thứ 21 trên thế giới.
Xuất khẩu Việt Nam tăng “khủng”
Ngân hàng Thế giới (WB) ghi nhận, giá trị xuất khẩu của Việt Nam năm 1988 đạt khoảng 1,01 USD, xếp thứ 6/10 trong khối ASEAN và đứng thứ 90/126 trên thế giới.
Tuy nhiên, năm 2021, giá trị xuất khẩu của Việt Nam đã tăng lên 292,48 tỷ USD, qua đó đưa Việt Nam vươn lên thứ 2/10 trong khối ASEAN, xếp thứ 23 trên thế giới.
Như vậy, giá trị xuất khẩu của Việt Nam đã tăng hơn 289 lần, nhảy 67 bậc trong bảng xếp hạng giá trị xuất khẩu toàn thế giới giai đoạn 1988 - 2021.
Năm 2022, giá trị xuất khẩu của Việt Nam đạt 371,5 tỷ USD, xếp thứ 21 trên thế giới.
Với kết quả này, giá trị xuất khẩu của Việt Nam năm 2022 đã nhảy 2 bậc so với năm 2021 và 69 bậc so với năm 1988.
Tính chung giai đoạn 1988 - 2022, giá trị xuất khẩu Việt Nam đã vươn lên từ hạng 90 lên 21, tăng 69 bậc, gần lọt top 20 toàn cầu.
Tính riêng trong khối ASEAN, giá trị xuất khẩu của Việt Nam năm 2022 tiếp tục xếp thứ 2/10 toàn khối.
Trong số các nước ASEAN-6, Singapore là quốc gia có kim ngạch xuất nhập khẩu lớn nhất năm 2022. Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của Singapore lên đến 1.028 tỷ USD.
Malaysia là nước có giá trị xuất khẩu đứng thứ 3 trong ASEAN năm 2022, đạt khoảng 353 tỷ USD. Indonesia xếp ngay sau với tổng giá trị xuất khẩu năm 2022 đạt 291,98 tỷ USD.
Thái Lan ghi nhận giá trị xuất khẩu năm 2022 đạt 287,07 tỷ USD, xếp thứ 5 trong ASEAN. Philippines xếp thứ 6, đạt khoảng 78,84 tỷ USD.
Trong giai đoạn 1988 – 2022, giá trị xuất khẩu của Việt Nam đã nhảy từ vị trí thứ 6 lên thứ 2 trong khối ASEAN.
Đồng thời, giá trị xuất khẩu của Việt Nam đã tăng 367,82 lần sau 34 năm. Việt Nam là nước có mức tăng lớn nhất về giá trị xuất khẩu giai đoạn trên.
Mở rộng thị trường, tăng cường ký kết FTA
Các quốc gia khác ở ASEAN đều ghi nhận sự cải thiện nhưng chậm hơn Việt Nam rất nhiều.
Theo đó, giai đoạn 1988 – 2022, giá trị xuất khẩu của Lào tăng 172,84 lần; Brunei tăng 93,58 lần; Myanmar tăng 73,68 lần; Campuchia tăng 34,84 lần; Malaysia tăng 15,07 lần; Thái Lan tăng 14,1 lần; Indonesia tăng 13,83 lần; Singapore tăng 11,37 lần; Philippines tăng 9,14 lần.
Nhìn vào kết quả trên, có thể thấy, xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ của Việt Nam đã phát triển mạnh mẽ, đạt được những thành tựu quan trọng, trở thành trụ đỡ cho tăng trưởng kinh tế và phát triển xã hội.
Trước đây, có 7 mặt hàng của Việt Nam đạt kim ngạch xuất khẩu từ 500 triệu USD trở lên, bao gồm: gạo, giày dép, dệt may, dầu thô, cà-phê, hàng điện tử và hàng thủy sản.
Dến nay, Việt Nam đã có tới 35 mặt hàng đạt kim ngạch xuất khẩu trên 1 tỷ USD, chiếm 93,8% tổng kim ngạch xuất khẩu, trong đó có 8 mặt hàng xuất khẩu đạt trên 10 tỷ USD, chiếm 69,7%.
Những năm qua, cơ cấu nhóm hàng xuất khẩu của Việt Nam đã chuyển dịch mạnh mẽ theo hướng tích cực, từ xuất khẩu thô sang xuất khẩu hàng chế biến sâu, hàng công nghệ.
Việt Nam cũng tích cực mở rộng tìm kiếm thị trường xuất khẩu cho hàng hoá của mình. Năm 1991, Việt Nam có hơn 20 thị trường xuất khẩu nhưng chủ yếu chỉ ở các nước châu Á - Thái Bình Dương. Đến năm 2021, theo Nhịp sống kinh tế, Việt Nam đã phát triển quan hệ thương mại với hơn 230 quốc gia và vùng lãnh thổ.
Đồng thời, Việt Nam còn mở rộng quan hệ kinh tế, thương mại với tất cả các nước công nghiệp phát triển (G7), các khu vực kinh tế lớn và các định chế, thể chế kinh tế, thương mại, tài chính tiền tệ toàn cầu.
Việt Nam cũng được xem là rất tích cực tham gia ký kết các hiệp định thương mại tự do (FTA) nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động xuất khẩu.
Tính đến tháng 5/2023, Việt Nam có 15 FTA đang hiệu lực, 1 FTA đã hoàn tất đàm phán và 3 FTA đang đàm phán.