Quy chế bầu cử trong Đảng ở Việt Nam

Việt Nam vừa công bố quy chế mới về bầu cử trong Đảng (Quyết định số 190) do Tổng Bí thư Tô Lâm ký ban hành.
Sputnik
Theo quy chế vừa ban hành, việc bầu cử trong Đảng thực hiện theo nguyên tắc tập trung dân chủ; bình đẳng, trực tiếp, đa số quá bán.

Quy chế mới về bầu cử trong Đảng

Thay mặt Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Tổng Bí thư Tô Lâm vừa ký Quyết định số 190-QĐ/TW của Ban Chấp hành Trung ương về việc ban hành Quy chế bầu cử trong Đảng.
Quyết định, Quy chế mới thay thế Quy chế bầu cử trong Đảng được ban hành kèm theo Quyết định số 244-QĐ/TW, ngày 9/6/2014 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá XI.
Quy chế mới ban hành gồm 36 điều với quy định chung về đối tượng và phạm vi điều chỉnh; nguyên tắc bầu cử; hình thức bầu cử; quy định chi tiết về nhiệm vụ của cấp ủy triệu tập đại hội, các tổ chức điều hành và giúp việc đại hội trong công tác bầu cử; ứng cử, đề cử, bầu cử, danh sách bầu cử, phiếu bầu cử; trình tự, thủ tục bầu cử; tính kết quả và chuẩn y kết quả bầu cử; xử lý vi phạm; thẩm quyền, thủ tục giải quyết khiếu nại, vi phạm quy chế bầu cử, thời gian lưu trữ phiếu bầu cử...
Quy chế bầu cử trong Đảng theo Quyết định số 190 được áp dụng đối với việc bầu cử tại đại hội chi bộ, đại hội đảng bộ các cấp; bầu cử ở hội nghị ban chấp hành, hội nghị uỷ ban kiểm tra.
Riêng việc bầu cử ở Đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng do Đại hội quyết định.
Về nguyên tắc bầu cử, việc bầu cử trong Đảng thực hiện theo nguyên tắc tập trung dân chủ; bình đẳng, trực tiếp, đa số quá bán.
Khai giảng lớp bồi dưỡng quy hoạch Ủy viên Trung ương Đảng
Kết quả bầu cử từ chi bộ đến đảng bộ trực thuộc Trung ương phải được chuẩn y của cấp uỷ có thẩm quyền theo quy định.
Việc bỏ phiếu kín sẽ được thực hiện khi bầu ban chấp hành đảng bộ, chi bộ (gọi tắt là cấp uỷ); bầu Ban Chấp hành Trung ương Đảng; bầu ban thường vụ, bí thư, phó bí thư cấp uỷ; bầu Bộ Chính trị, Tổng Bí thư, Ban Bí thư; bầu uỷ ban kiểm tra, chủ nhiệm, phó chủ nhiệm uỷ ban kiểm tra; bầu đại biểu dự đại hội đảng bộ cấp trên.
Khi lấy phiếu xin ý kiến về các ứng cử viên để đưa vào danh sách bầu cử; giới thiệu đảng viên ứng cử các chức danh lãnh đạo Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội, hội quần chúng do Đảng, Nhà nước giao nhiệm vụ cũng thực hiện bằng hình thức bỏ phiếu kín.
Biểu quyết giơ tay (sử dụng thẻ đảng viên để biểu quyết) được thực hiện trong các trường hợp như bầu các cơ quan điều hành, giúp việc đại hội, hội nghị (đoàn chủ tịch đại hội, đoàn thư ký, thư ký đại hội, chủ tịch hội nghị, ban thẩm tra tư cách đại biểu, ban kiểm phiếu); thông qua số lượng và danh sách bầu cử.
Quyết định cũng quy định nhiệm vụ cụ thể của cấp uỷ triệu tập đại hội, các tổ chức điều hành và giúp việc đại hội trong công tác bầu cử; nhiệm vụ của đoàn chủ tịch, chủ tịch đại hội...

Siết kỷ cương ứng cử, đề cử, công tác nhân sự

Chương III của Quy chế nêu cụ thể về: Ứng cử, đề cử, bầu cử, danh sách bầu cử, phiếu bầu cử.
Về đề cử và thủ tục đề cử (Điều 10), người đề cử nhân sự tham gia cấp ủy tại đại hội phải chịu trách nhiệm trước đại hội về tiêu chuẩn, điều kiện tham gia cấp ủy của người mà mình đề cử.
Sau đại hội, nếu xác minh người được đề cử không đủ tiêu chuẩn, điều kiện theo quy định thì tuỳ theo mức độ vi phạm, người đề cử sẽ bị xem xét xử lý theo quy định của Đảng.
Như vậy có thể thấy, ngoài việc tiếp tục mở rộng tinh thần dân chủ, Quy chế 190 đã bổ sung một số quy định nhằm siết chặt kỷ cương đối với công tác nhân sự, giới thiệu nhân sự đề cử.
Theo đó, Điều 11 của Quy chế quy định: "Cấp uỷ viên cấp triệu tập đại hội không được đề cử nhân sự ngoài danh sách do cấp uỷ đề cử; không được ứng cử và nhận đề cử nếu không có tên trong danh sách đề cử của cấp uỷ”.
Ở các hội nghị của ban chấp hành, uỷ viên ban thường vụ không được đề cử nhân sự ngoài danh sách do ban thường vụ cấp uỷ đề cử; không được ứng cử và nhận đề cử nếu không có tên trong danh sách đề cử của ban thường vụ cấp uỷ.
Việt Nam chưa sửa Điều lệ Đảng tại Đại hội 14
Ở các hội nghị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, các đồng chí Uỷ viên Bộ Chính trị, Uỷ viên Ban Bí thư không được đề cử nhân sự ngoài danh sách do Bộ Chính trị đề cử; không được ứng cử và nhận đề cử nếu không có tên trong danh sách đề cử của Bộ Chính trị.
Về quyền bầu cử (Điều 13), chỉ đại biểu chính thức của đại hội đại biểu các cấp và đảng viên chính thức của đại hội đảng viên mới có quyền bầu cấp ủy cấp mình và bầu đại biểu dự đại hội đảng bộ cấp trên. Ở đại hội đảng viên, đảng viên sinh hoạt tạm thời và đảng viên dự bị không có quyền bầu cử.
Về tính kết quả bầu cử (Điều 30), kết quả bầu cử được tính trên số phiếu bầu hợp lệ; phiếu hợp lệ là phiếu được quy định tại Điều 15 của Quy chế này.
Trường hợp phiếu bầu nhiều người mà không có số dư, người bầu cử đánh dấu X vào cả ô đồng ý và ô không đồng ý hoặc không đánh dấu X vào cả hai ô đồng ý, không đồng ý tương ứng với họ và tên người nào thì không tính vào kết quả bầu cử của người đó (phiếu đó vẫn được tính là phiếu hợp lệ).
Về thời hạn lưu trữ phiếu bầu cử: Phiếu bầu cử được ban kiểm phiếu niêm phong và chuyển cho đoàn chủ tịch để bàn giao cho cấp uỷ lưu trữ trong thời hạn 6 tháng. Trong thời gian này, nếu không có quyết định của cấp có thẩm quyền, không ai được tự ý mở niêm phong.
Quá 6 tháng, nếu không có khiếu nại, tố cáo về kết quả bầu cử thì cấp uỷ cùng cấp quyết định cho huỷ số phiếu đó.
Thảo luận