Những thành tựu đạt được tron giai đoạn 2021-2025 đã minh chứng cho sức mạnh nội sinh và tinh thần vượt khó của dân tộc Việt Nam. Đất nước hiện đang đứng trước giai đoạn bản lề để bứt phá, hiện thực hóa khát vọng phát triển hùng cường, thịnh vượng và bao trùm.
Khả năng ứng phó phi thường
Chiều 12/11, Cổng TTĐT Chính phủ đã tổ chức buổi toạ đàm “Kinh tế - xã hội Việt Nam 2021-2025: Chống chịu và bứt phá”. Sự kiện nhằm khái quát lại những nét lớn, bao trùm về tình hình kinh tế - xã hội Việt Nam trong 5 năm qua, so với những năm trước và so với thế giới, khu vực
Phát biểu tại tọa đàm, Đại biểu Quốc hội Phan Đức Hiếu nhấn mạnh, thực tế đã cho thấy nền kinh tế Việt Nam đủ sức chống chịu trước các cú sốc bên ngoài.
Toạ đàm “Kinh tế-xã hội Việt Nam 2021-2025: Chống chịu và bứt phá” được Cổng TTĐT Chính phủ tổ chức chiều 12/11 tại Hà Nội.
© Ảnh : Báo Điện tử Chính phủ
Theo đó, dù giai đoạn 2021-2025 có nhiều biến động, tốc độ tăng trưởng GDP bình quân của Việt Nam vẫn đạt 6,3% (nếu năm nay tăng 8%). Quy mô nền kinh tế cũng tăng lên từ 364 lên khoảng 510 tỉ USD, thặng dư thương mại và dự trữ ngoại hối đều có sự thay đổi tích cực.
Ông Phan Đức Hiếu cho biết, Việt Nam đã vượt qua hàng loạt “cơn bão” lớn. Khi dịch COVID-19 bùng phát, Chính phủ đã nhanh chóng triển khai chiến lược “ngoại giao vaccine”, đồng thời tung ra các gói phục hồi và phát triển kinh tế kịp thời. Trong bối cảnh xu hướng “reshoring” và biến động chính sách thương mại quốc tế, Việt Nam vẫn duy trì sức hút đầu tư nước ngoài, kim ngạch xuất nhập khẩu gia tăng liên tục.
Về phần mình, TS. Nguyễn Sĩ Dũng nhận định, Việt Nam đã khéo léo đến mức kéo giảm nợ công, mở rộng không gian tài khóa, trong khi hạ tầng cũng có nhiều đột phá rõ rệt. Đây là nền tảng vững chắc cho giai đoạn phát triển tiếp theo.
Trong khi đó, bà Ramla Khalidi, Trưởng Đại diện thường trú UNDP tại Việt Nam, cho biết bà ấn tượng sâu sắc khi Việt Nam có thể biến khủng hoảng thành cơ hội, duy trì tăng trưởng hơn 7%, cũng như cải thiện chỉ số phát triển con người (HDI).
Theo bà Khalidi, yếu tố then chốt làm nên sự thành công của Việt Nam nằm ở sự lãnh đạo mạnh mẽ và tầm nhìn chiến lược của các nhà quản lý, giúp đất nước kiên cường thích ứng với khủng hoảng và biến đổi khí hậu.
Giáo sư Vũ Minh Khương (Đại học Quốc gia Singapore) đánh giá khái quát sự điều hành của Chính phủ là “Quả cảm - Quyết liệt - Quên mình”. Theo ông, không có thách thức nào dân tộc Việt Nam không thể vượt qua, cũng không có mục tiêu nào người Việt không thể vươn tới. Chính tinh thần này đã tạo ra luồng sinh khí mới cho cả hệ thống chính trị và nền kinh tế, giúp Việt Nam bước qua giai đoạn thử thách bằng bản lĩnh và niềm tin.
An sinh xã hội – điểm sáng vì con người
Ngoài vấn đề ổn định kinh tế, an sinh xã hội luôn là ưu tiên hàng đầu của Đảng và Nhà nước. TS. Bùi Sỹ Lợi, nguyên Phó Chủ nhiệm Ủy ban Văn hóa - Xã hội của Quốc hội, cho rằng điểmngoạn mục nhất là Việt Nam đã vận dụng đúng quan điểm của Đảng: phát triển kinh tế phải gắn liền với tiến bộ và công bằng xã hội.
Điều này được thể hiện qua việc các chính sách an sinh được triển khai đồng bộ, bao trùm, hướng đến nhóm yếu thế và vùng đồng bào thiểu số. Tỉ lệ hộ nghèo đã được kéo giảm từ 4,4% năm 2021 xuống còn 1,9% năm 2024, dự kiến về khoảng 1% vào năm 2025. Độ bao phủ bảo hiểm xã hội đạt 95% dân số, trong khi HDI của Việt Nam cũng liên tục cải thiện.
Theo TS. Bùi Sỹ Lợi, năm điểm nhấn nổi bật của nhiệm kỳ này bao gồm: giảm nghèo bền vững, gắn kết y tế, giáo dục để phát triển con người; nâng cao chất lượng nguồn nhân lực; phát huy bản sắc văn hóa dân tộc; và bảo đảm công bằng, chăm lo nhóm yếu thế.
“Đó là nền tảng quan trọng để củng cố niềm tin của nhân dân”, báo PLO dẫn lời TS. Bùi Sỹ Lợi.
Về phần mình, bà Ramla Khalidi đánh giá cao tiến độ thực hiện Mục tiêu Phát triển Bền vững (SDGs) của Việt Nam, nhất là trong công tác giảm nghèo, bao phủ bảo hiểm y tế và mở rộng cơ hội giáo dục.
“Việt Nam đang ở thời điểm đặc biệt, khi đã tích lũy được nhiều thành công và giờ cần ‘chuyển số’ để tăng tốc”, đại diện UNDP cho biết.
Tại hội đàm, các chuyên gia cũng lưu ý những thách thức còn tồn tại, như tình trạng bất bình đẳng về vùng miền, giới tính, khoảng cách số và nguy cơ từ biến đổi khí hậu. Trong thời gian tới, Việt Nam cần đầu tư mạnh mẽ hơn nữa vào nguồn nhân lực chất lượng cao, chuyển đổi xanh và đổi mới thể chế nhằm duy trì đà phát triển.