Năm nay, nhân loại tiến bộ kỷ niệm 200 năm Ngày sinh C. Mác (Karl Marx) — Nhà tư tưởng thiên tài, nhà cách mạng vĩ đại, lãnh tụ kiệt xuất của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và các dân tộc bị áp bức trên toàn thế giới. Nhân loại mãi mãi khắc ghi những cống hiến to lớn của C. Mác — Người đã cùng Ph. Ăng-ghen (Friedrich Engels) xây dựng nên hệ thống lý luận cách mạng và khoa học, là kim chỉ nam, vũ khí tinh thần sắc bén, soi sáng sự nghiệp cách mạng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động toàn thế giới trong cuộc đấu tranh xóa bỏ áp bức, bóc lột. Cuộc đời và sự nghiệp cách mạng cao cả của C. Mác đã đi vào lịch sử thế giới như một trong những ngôi sao sáng nhất trên bầu trời trí tuệ nhân loại, đúng như Ph. Ăng-ghen đã khẳng định: "Tên tuổi và sự nghiệp của ông đời đời sống mãi" [1].
Trong di sản lý luận kinh điển đồ sộ và uyên bác của C. Mác, bộ sách "Tư bản" mà Người coi là sự nghiệp của cả đời mình và Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản được C. Mác và Ph. Ăng-ghen xuất bản lần đầu vào năm 1848, là những tác phẩm bất hủ, có tầm ảnh hưởng rộng lớn trên thế giới.
Trên lĩnh vực triết học, "triết học của Mác là một chủ nghĩa duy vật triết học hoàn bị, nó cung cấp cho loài người và nhất là cho giai cấp công nhân những công cụ nhận thức vĩ đại" [2]. C. Mác đã vận dụng phép biện chứng duy vật vào việc nghiên cứu lịch sử, xã hội, sáng lập ra chủ nghĩa duy vật lịch sử, làm cho chủ nghĩa duy vật biện chứng trở nên hoàn chỉnh, từ chỗ nhận thức thế giới tự nhiên đến chỗ nhận thức xã hội loài người. "Giống như Đác-uyn (Charles Darwin) đã tìm ra quy luật phát triển của thế giới hữu cơ, C. Mác đã tìm ra quy luật phát triển của lịch sử loài người" [3] và đây là một trong những phát kiến vĩ đại nhất của C. Mác đối với nhân loại, như V. Lênin (Vladimir Lenin) khẳng định:
"Chủ nghĩa duy vật lịch sử của Mác là thành tựu vĩ đại nhất của tư tưởng khoa học" [4].
Trên lĩnh vực kinh tế chính trị, C. Mác đã vận dụng chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử vào việc nghiên cứu và chỉ ra những quy luật kinh tế, quá trình phát sinh, phát triển và diệt vong của chủ nghĩa tư bản. C. Mác đã phát hiện ra quy luật giá trị thặng dư — "quy luật vận động riêng của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa hiện đại và của xã hội tư sản do phương thức đó đẻ ra" [5]; chỉ rõ mâu thuẫn cơ bản của xã hội tư bản là mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất ngày càng xã hội hóa cao với chế độ chiếm hữu tư nhân về tư liệu sản xuất chủ yếu, mẫu thuẫn giữa giai cấp tư sản và giai cấp vô sản, mà "sự sụp đổ của giai cấp tư sản và thắng lợi của giai cấp vô sản đều là tất yếu" [6]. Đánh giá về khám phá vĩ đại trên của C. Mác, V. Lênin khẳng định: "Học thuyết giá trị thặng dư là viên đá tảng của học thuyết kinh tế của Mác" [7].
Với hệ thống lý luận hoàn chỉnh gồm ba bộ phận cấu thành là Triết học Mác-xít, Kinh tế chính trị Mác-xít và Chủ nghĩa xã hội khoa học gắn kết chặt chẽ với nhau, C. Mác và Ph. Ăng-ghen đã xây dựng nên một thế giới quan khoa học, phương pháp luận cách mạng để nhận thức và cải tạo thế giới, như V. Lênin khẳng định: "Học thuyết của Mác là học thuyết vạn năng vì nó là một học thuyết chính xác. Nó là một học thuyết hoàn bị và chặt chẽ; nó cung cấp cho người ta một thế giới quan hoàn chỉnh, không thỏa hiệp với bất cứ một sự mê tín nào, một thế lực phản động nào, một hành vi nào bảo vệ sự áp bức của tư sản" [9]. Qua đó, giai cấp công nhân và nhân dân lao động toàn thế giới đã tìm thấy trong học thuyết của C. Mác và Ph. Ăng-ghen vũ khí lý luận, vũ khí tư tưởng sắc bén trong cuộc đấu tranh chống áp bức, bóc lột, hướng tới một tương lai xán lạn.
Từ khi ra đời đến nay, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại luôn lấy chủ nghĩa Mác — Lênin làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động của mình; luôn vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác — Lênin vào điều kiện cụ thể của cách mạng Việt Nam, kết hợp nhuần nhuyễn giữa giai cấp và dân tộc, độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, lãnh đạo nhân dân ta vượt qua muôn vàn khó khăn, thử thách, đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Từ thắng lợi vĩ đại của cuộc Cách mạng Tháng Tám năm 1945, khai sinh ra nhà nước công nông đầu tiên ở Đông Nam Á, dưới sự lãnh đạo sáng suốt, tài tình của Đảng và Bác Hồ kính yêu, nhân dân ta đã tiếp tục giành được những thắng lợi vẻ vang trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, đế quốc Mỹ xâm lược, hoàn thành cách mạng dân tộc, dân chủ, thống nhất Tổ quốc, đưa cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội.
Trong bối cảnh thế giới đầy biến động, Đảng ta luôn giữ vững bản chất cách mạng của giai cấp công nhân, kiên định chủ nghĩa Mác — Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; kiên trì đường lối đổi mới, coi đây là yêu cầu bức thiết của sự nghiệp cách mạng, là vấn đề có ý nghĩa sống còn. Lịch sử đã chỉ cho chúng ta rằng, cùng với sự phát triển của thời đại, chúng ta càng phải kiên trì phát triển chủ nghĩa Mác — Lênin; xác định rõ đổi mới không phải là từ bỏ mục tiêu của chủ nghĩa xã hội mà là làm cho chủ nghĩa xã hội được nhận thức đúng đắn hơn và được xây dựng có hiệu quả hơn; đổi mới không phải là xa rời, mà là nhận thức đúng, vận dụng và không ngừng sáng tạo, phát triển chủ nghĩa Mác — Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, lấy đó làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động của Đảng, làm cơ sở phương pháp luận quan trọng nhất để hoạch định và hoàn thiện đường lối đổi mới. Qua hơn 30 năm đổi mới, đất nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, khẳng định đường lối đổi mới của Đảng ta là đúng đắn, sáng tạo; con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của nước ta là phù hợp với thực tiễn của Việt Nam và xu thế phát triển của lịch sử.
Thực tiễn cách mạng Việt Nam trong suốt 88 năm qua là minh chứng sinh động, đầy sức thuyết phục về giá trị bền vững, sức sống vĩ đại của chủ nghĩa Mác — Lênin.
Đây cũng là dịp để chúng ta đẩy mạnh nghiên cứu, học tập, vận dụng sáng tạo và phát triển, đóng góp vào kho tàng lý luận của chủ nghĩa Mác — Lênin. Chủ động nghiên cứu, tiếp thu có chọn lọc các lý thuyết phát triển, các thành tựu khoa học xã hội tiên tiến trên thế giới. Tiếp tục làm sáng tỏ nhận thức, quan niệm về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của nước ta, tập trung vào các vấn đề: Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội; phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa trong bối cảnh hội nhập quốc tế sâu rộng; tăng trưởng kinh tế với phát triển văn hóa và thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội; phát huy và thực hành quyền dân chủ của nhân dân; xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; phân công và giám sát quyền lực trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa; mối quan hệ giữa dân chủ và kỷ luật, kỷ cương; những vấn đề lý luận và thực tiễn về xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới; những vấn đề thực tiễn và lý luận đang đặt ra cấp bách trong thời đại ngày nay…
Chủ nghĩa Mác do C. Mác, Ph. Ăng-ghen sáng lập cách đây gần hai thế kỷ, được V. Lênin phát triển lên một tầm cao mới, mang ý nghĩa cách mạng vĩ đại, vô cùng lớn lao trong lịch sử nhận thức của nhân loại. Đến nay, "C. Mác vẫn được coi là người có ảnh hưởng nhất" [12], những nguyên lý cơ bản do những nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác — Lênin đề ra, mà nền tảng là thế giới quan và phương pháp luận duy vật biện chứng, duy vật lịch sử, vẫn mãi mãi soi đường cho nhân loại tiến bộ đi tới tương lai tốt đẹp hơn.
[1] C. Mác và Ph. Ăng-ghen: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia — Sự Thật, Hà Nội, 1995, t. 19, tr. 502.
[2] V. Lênin: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005, t. 23, tr. 54.
[3] C. Mác và Ph. Ăng-ghen: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia — Sự Thật, Hà Nội, 1995, t. 19, tr. 499.
[4] V. Lênin: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005, t. 23, tr. 53.
[5] C. Mác và Ph. Ăng-ghen: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia — Sự Thật, Hà Nội, 1995, t. 19, tr. 500.
[6] C. Mác và Ph. Ăng-ghen: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia — Sự Thật, Hà Nội, 1995, t. 4, tr. 613.
[7] V. Lênin: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005, t. 23, tr. 55.
[8] C. Mác và Ph. Ăng-ghen: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia — Sự Thật, Hà Nội, 1995, t. 4, tr. 628.
[9] V. Lênin: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005, t. 23, tr. 50.
[10] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, t. 1, tr. 461.
[11] V. Lênin: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005, t. 4, tr. 232.
[12] Tô-ni Ben: A future for socialism (Tương lai của chủ nghĩa xã hội), Nxb Ha-pơ Cô-lin, 1991, tr. 62.
GS. TS Trần Đại Quang
Ủy viên Bộ Chính trị, Chủ tịch nước CHXHCN Việt Nam
Theo: Báo Công Luận