Hai tháng đầu năm 1988, sau khi chiếm giữ trái phép các bãi đá Chữ Thập, Châu Viên, Tư Nghĩa (Huy Gơ), Ga Ven và Xu Bi, quân Trung Quốc chuẩn bị mở rộng xâm lấn bằng kế hoạch thôn tính ba bãi cạn Gạc Ma, Cô Lin, Len Đao.
Đầu tháng 3/1988, Hải quân Trung Quốc huy động lực lượng xuống khu vực quần đảo Trường Sa, đội tàu hoạt động thường trực ở đây không ngừng tăng về số lượng và chủng loại tàu.
Trước tình hình đó, ngày 9/1/1988, Đảng ủy Quân chủng đã tổ chức cuộc họp khẩn cấp và nhận định về tình hình Biển Đông. Một chiến dịch mang mật danh CQ-88 đã được khẩn trương triển khai để bảo vệ chủ quyền biển đảo.
Sáng 14/3/1988, khi các chiến sĩ công binh Việt Nam đang làm nhiệm vụ ở Gạc Ma thì tàu chiến Trung Quốc ập tới…
Cuộc đổ bộ của lính Trung Quốc
… Đến khoảng 5 giờ 30, quân Trung Quốc bắt đầu xuất hiện. Họ đi trên ba tàu hộ vệ tên lửa tiến lại gần tàu Việt Nam. Lần lượt ba chiếc tàu chiến ở khoảng cách chừng ba trăm — bốn trăm mét, mang số hiệu 502, 503 và 504 áp sát tàu HQ 604.
Ở cự ly rất gần, các chiến sĩ trên tàu HQ 604 đều nhận ra cả ba tàu Trung Quốc đều là tàu chiến, không khí trên tàu phía Việt Nam bắt đầu nóng lên, mọi người ngưng trêu đùa mà tập trung quan sát từng động thái của đối phương.
Lợi dụng thời cơ thủy triều xuống, tất cả lính công binh phải vận chuyển cho xong vật liệu lên bãi đá, đề phòng Trung Quốc giở trò cho lính đổ bộ lên xâm chiếm trước.
Trong không khí căng thẳng, để động viên tinh thần cán bộ chiến sĩ, Trung tá Trần Đức Thông hẹn với Thượng úy Nguyễn Văn Chương: "Sau khi chuyển tất cả vật liệu xuống thì chiều tối ta nghỉ ngơi, tôi có chai rượu ngon mời anh em ra để cùng rút kinh nghiệm, cũng như trao đổi nhiệm vụ".
Tàu Trung Quốc sau khi tới đã lập tức thả ba chiếc xuồng máy, chở năm mươi người tiến vào bãi đá Gạc Ma. Theo quan sát của các chiến sĩ trên bãi cạn, bốn mươi tám lính Trung Quốc được trang bị súng AK bên hông, mang trước ngực một tạp dề và băng đạn, dưới chân còn có dao lê thủ sẵn.
Một lính Trung Quốc đi cuối cùng mang bộ đàm sau lưng. Còn viên chỉ huy toán quân có thân hình cao to, cầm súng ngắn trên tay, bước xuống xuồng sau cùng và đứng gần chỗ bộ đội Công binh Việt Nam đang nắm giữ dây cáp.
Không khí căng thẳng theo từng bước chân của đối phương dạo quanh bãi đá Gạc Ma. Hạ sĩ Ngô Văn Phúc, thuộc Trung đoàn Công binh 83 đối mặt với người lính Trung Quốc gần nhất, thuật lại:
"Quân địch cũng như bọn tôi vẫn đang ăn lương khô, chúng mời thì tôi từ chối và nói ăn rồi, Việt Nam ăn rồi, no rồi. Lúc đó còn nói nghịch với nhau, vô tư vậy đó".
Trong đó, có một chiếc xuồng máy của Trung Quốc được trang bị đại liên chạy vòng quanh tàu HQ 604 và chĩa súng lên tàu khiêu khích. Còn các tàu khu trục đã mở bạt súng, pháo và đều chĩa về phía hai tàu HQ 604 và HQ 505. Quân Trung Quốc liên tục bắc loa kêu gọi bộ đội Việt Nam rời khỏi bãi đá Gạc Ma bằng thứ tiếng Việt lơ lớ.
Linh tính về cuộc giằng co sẽ xảy ra, Trung sĩ Lê Hữu Thảo liên tục rít thuốc, rồi báo cáo tình hình với Trung đội trưởng Nguyễn Mậu Phong về số lượng vũ khí và sự chênh lệch binh lực giữa hai bên. Lê Hữu Thảo e ngại nếu xảy ra tranh chấp giành cờ thì chúng ta có thể sẽ chịu thiệt hại nặng.
Đứng trước tình thế nguy cấp, Trung đội trưởng Nguyễn Mậu Phong bình tĩnh căn dặn các chiến sĩ giữ nguyên vị trí, tiếp tục chốt ở chỗ cột cờ để vừa bảo vệ, vừa quan sát mọi động tĩnh của phía Trung Quốc.
"Lần đầu tiên có súng chĩa thẳng vào đầu tôi"
Trên tàu HQ 604 của Hải quân Việt Nam, khi thấy lính Trung Quốc đã tiếp cận bãi đá, chỉ huy cụm đảo là Trung tá Trần Đức Thông liền ra lệnh cho các thủy thủ và lực lượng công binh ai biết bơi lập tức nhảy khỏi tàu vào hỗ trợ, phối hợp với các đồng đội hình thành tuyến phòng thủ để đối phương không thể tiến lên.
Ngay lập tức có khoảng hai mươi người nhảy vào bãi cạn tiếp trợ. Vẫn mặc nguyên quần cộc, áo lót trên người và không có giáp bảo hộ, hai lính công binh Nguyễn Tuân và Ngô Văn Luận không chần chừ lao nhanh vào bãi Gạc Ma đang nửa nổi nửa chìm.
"Lúc ấy tôi chẳng nghĩ gì nhiều, cứ thế bơi hết tốc lực vào trong bờ để cổ động tinh thần đồng đội" — Ngô Văn Luận kể.
Khi chuyến xuồng thứ ba đang quay lại tàu để tiếp tục chuyển vật liệu thì xuồng máy Trung Quốc chạy quanh và cắt phăng sợi dây nối. Hạ sĩ Nguyễn Văn Lục, thuộc Trung đoàn Công binh E83, lúc này đang nắm giữ sợi dây vận tải chuyển hàng từ tàu ra vị trí tập kết liền vươn người theo, lao tới giằng co với lính Trung Quốc để giữ lại sợi dây.
Cùng với Lục có thêm các chiến sĩ khác là Hạ sĩ Đậu Hồng Biên và Hạ sĩ Lê Thanh Miện hợp sức giằng mạnh sợi dây để đảm bảo lưu thông con đường vận chuyển. Khi Hạ sĩ Nguyễn Văn Lục chạy ra nối dây thì một binh sĩ Trung Quốc rút súng chĩa vào đầu từng người lính công binh đang ra sức phản kháng, giật lại sợi dây và vứt hẳn ra xa.
"Đó là lần đầu tiên có súng chĩa thẳng vào đầu tôi. Lúc đó chúng nói rất to, rất rõ bằng tiếng Việt chứ không phải tiếng Tàu: ‘Mày mà nối dây là tao bắn chết", Hạ sĩ Nguyễn Văn Lục kể.
Đang hì hục khoát nước thì Đông cảm thấy có mũi súng lạnh toát phía sau lưng. Lúc này, không biết phải làm sao nên anh tiếp tục khoát nước: "Mặc cho chúng kề súng sát người, tôi vẫn tiếp tục khoát nước. Sau nhìn thấy chúng cắt dây và đồng đội mình giằng co kéo lại thì tôi nhảy lên tàu thông báo cho mọi người biết".
Sau khi khống chế được hầu hết lực lượng Công binh Việt Nam, lính Trung Quốc trên xuồng máy đồng loạt chĩa súng lên tàu HQ 604 khiêu khích.
Căng thẳng giữa hai bên dâng lên đến cực điểm, Trung Quốc vẫn không ngừng bắc loa từ trên tàu 502 yêu cầu bộ đội Việt Nam rút lui khỏi bãi đá Gạc Ma, ngưng ngay mọi hành vi bồi đắp đảo và xây dựng nhà trên lãnh thổ của Trung Quốc.
Nghe tới đây, Hạ sĩ Đậu Xuân Tư quay sang nói với Trung sĩ Lê Hữu Thảo bằng giọng sôi sục: "Bọn mình bắn bỏ mẹ nó đi Thảo ơi".
Nhớ lời dặn của Trung đội trưởng Nguyễn Mậu Phong trước đó, Thảo trấn an đồng đội hãy bình tĩnh chờ mệnh lệnh, tay vẫn giữ chắc súng phòng trường hợp xấu.
Nội dung bài viết được trích từ cuốn sách "Gạc Ma — Vòng Tròn Bất Tử" do First News thực hiện từ năm 2014 với mục đích kể lại câu chuyện bi tráng về 64 chiến sĩ Hải quân Nhân dân Việt Nam đã anh dũng hy sinh vì biển đảo Tổ quốc.
Theo: Trí Thức Trẻ