Rõ ràng, lực lượng mặt đất là một quân chủng có mức tài trợ thấp nhất ở Mỹ, vì thế Hoa Kỳ đang cố gắng nâng cấp các xe bọc thép đến mức hiện tại. Sau đây là bài của Sputnik về những tính năng của các phiên bản mới.
Xe tăng Abrams, phiên bản SEP V3
Xe tăng chiến đấu chủ lực M1 Abrams được sản xuất từ năm 1980 và đang phục vụ trong quân đội của một số quốc gia. Phiên bản mới nhất — M1A2 — đã xuất hiện vào năm 1992. Giống như các phiên bản của xe tăng Nga T-72, xe tăng M1A2 là một phương tiện chiến đấu tích cực. Những chiếc xe tăng này đã từng tham gia cuộc chiến tranh Iraq vào những năm 2003-2011, các chiến dịch ở Afghanistan vào những năm 2001-2014, xe tăng Abrams đang tiếp tục chiến đấu ở Trung Đông. Trong quá trình vận hành đã tiết lộ một số thiếu sót, mà ngành công nghiệp Mỹ đã sửa chữa kịp thời. Phiên bản đầu tiên của Abrams SEP (phiên bản nâng cấp theo chuẩn System Enhancement Package) đã xuất hiện trên Abrams M1A2 vào năm 1999, SEP thứ hai vào năm 2008, SEP thứ ba đã được giới thiệu vào năm 2015. Theo kế hoạch, các xe tăng của Quân đội Hoa Kỳ sẽ được nâng cấp lên chuẩn SEP V3 vào đầu những năm 2020.
Trước hết phải nói rằng, xe tăng đang được nâng cấp để sử dụng hai loại đạn: đạn vạch đường đầu nổ lập trình và đạn xuyên giáo dưới cỡ mới. (Điều này khá logic, bởi vì xe tăng phải có khả năng chiến đấu không chỉ với xe bọc thép — ed.) Thứ hai, Abrams sẽ được lắp đặt kính ngắm ảnh nhiệt thế hệ thứ ba cho chỉ huy và xạ thủ, hệ thống tự chẩn đoán các thành phần, sẽ lắp thêm một máy phát điện phụ. Nó sẽ cung cấp năng lượng cho tất cả các hệ thống khi xe tăng đang đứng và không có nhu cầu khởi động động cơ chính. Ngoài ra, xe tăng sẽ được trang bị tổ hợp phòng vệ chủ động Trophy được đánh giá cao theo kết quả sử dụng trên xe tăng Merkava của Israel. Nhiệm vụ của tổ hợp phòng vệ chủ động là bắn hạ tên lửa chống tăng và lựu đạn ở khoảng cách an toàn đối với xe tăng.
Trong cuộc phỏng vấn của Sputnik, chuyên gia Nga về xe bọc thép Viktor Murakhovsky, Tổng biên tập tạp chí Kho vũ khí của Tổ quốc, cho biết rằng, nhiệm vụ chính của chương trình hiện đại hóa xe tăng Abrams M1A2, xe bọc thép M2 Bradley, xe thiết giáp bánh hơi Stryker là tăng mức độ hội nhập vào các cấu trúc chỉ huy và kiểm soát quân đội, bao gồm cả chiến thuật. Các hệ thống liên lạc kỹ thuật số mới sẽ được cài đặt trên tất cả loại thiết bị quân sự này. Lầu Năm Góc cố gắng cung cấp hệ thống thông tin liên lạc vệ tinh cho mỗi chiếc xe. Có cả các hệ thống kiểm soát hoạt động của các bộ phận, và camera quay video màu 360 độ. Dòng xe tăng này sẽ được lắp đặt kính ngắm ảnh nhiệt thế hệ thứ ba và các thiết bị quan sát thế hệ thứ ba cho chỉ huy và xạ thủ.
Xe bọc thép M2A4 Bradley
Bradley — phương tiện chiến đấu bộ binh của Mỹ, được tạo ra vào nửa cuối thập niên 1970 như là một phương án thay thế cho xe bọc thép M113 cũ kỹ. (Chắc chắn Mỹ đã chú ý đến những phiên bản xe bọc thép của đối thủ tiềm ẩn — BMP-1 (1966) của Liên Xô, cũng như đến xe bọc thép của các đồng minh — Marder-1 (1970) của Tây Đức — ed.) Vào năm 1986 đã xuất hiện phiên bản đầu tiên được hiện đại hóa — Bradley M2A1.
Còn vào đầu những năm 1990, Mỹ đã giới thiệu M2A2: với lớp giáp bảo vệ tăng cường và lớp lót bằng kevlar bên trong thân xe và tháp. Nhưng, khối lượng chiến đấu của xe bọc thép đã lên đến 30 tấn, mà điều đó tác động tiêu cực đến khả năng cơ động của nó. (Để so sánh, khối lượng chiến đấu của xe chiến đấu bộ binh BMP-2 do Liên Xô-Nga sản xuất là 14 tấn, BMP-3 — 18,7-22,7 tấn, Marder của Đức — 28,5-37,5 tấn tùy theo phiên bản, ZBD-04 của Trung Quốc (Loại 04) — 21,5 tấn — Ed.) Phiên bản M2A3 đã được giới thiệu vào năm 2000.
Xe chiến đấu của Mỹ được trang bị các hệ thống kỹ thuật số, ngoài ra vỏ giáp đã được tăng cường. Tất cả điều này làm tăng hơn nữa trọng lượng của chiếc xe và có ảnh hưởng bất lợi đến dây xích. Trong lần sửa đổi thứ tư, các chuyên gia Mỹ đã quyết định trả lại cho chiếc xe công suất ban đầu và khả năng cơ động cao. Bradley M2A4 được trang bị dây xích nhẹ hơn, hệ thống giảm xóc mới, nòng pháo có rãnh xoắn mới. Khoảng sáng gầm lên đến 510 mm, làm tăng tính cơ động và giúp bảo vệ khỏi mìn chống tăng. (Để so sánh — khoảng sáng gầm của xe chiến đấu Marder của Đức — 435 mm, BMP-3 của Liên Xô-Nga — 450 mm, ZBD-04 của Trung Quốc (Loại 04) — 450 mm). Tất nhiên, Bradley M2A4 có cả hệ thống liên lạc với cấu trúc chỉ huy và kiểm soát quân đội, được trang bị hệ thống điều hướng qua vệ tinh và được trang bị kính ngắm ảnh nhiệt thế hệ thứ ba.
Stryker ECP
Stryker thuộc gia đình các phương tiện chiến đấu bọc thép đa năng bắt đầu được trang bị cho Quân đội Hoa Kỳ vào năm 2002 và đã tham gia tích cực vào cuộc chiến ở Iraq. Chúng được sử dụng như xe bọc thép, xe trinh sát, súng cối tự hành, xe chỉ huy và xe kỹ thuật. Các quân nhân đánh giá tích cực xe Stryker theo kết quả hoạt động chiến đấu. Đặc biệt, xe Stryker có tỷ lệ sống sót cao sau khi bị trúng tên lửa chống tăng. Nhưng, khung gầm đã gây ra khiếu nại.
Chuyên gia Viktor Murakhovsky nói, xe Stryker là quá nặng, vì thế không thể tận dụng hết mọi khả năng của nó. Các chuyên gia Mỹ lên kế hoạch nâng cấp máy phát điện để công suất lên tới 450 mã lực (thay vì 350 mã lực ban đầu — Ed.), cũng như tăng cường khung gầm, hệ thống treo và lực đẩy bánh xe".
(Để so sánh: khối lượng chiến đấu của các xe chiến đấu có bánh xe từ những quốc gia khác nhau: Stryker (Mỹ) — 17,2 — 18,7 tấn tùy theo phiên bản, BTR-82 (Nga) — 15,4 tấn, K-16 BTR hạng nặng trên nền tảng Boomerang (Nga) — 25 tấn, ZBL-09 (Trung Quốc) — 21 tấn, Tip96 (Nhật Bản) — 14,5 tấn, K808 (Hàn Quốc) — 20 tấn, Eitan (Israel) — 30 — 35 tấn tùy theo phiên bản, Otokar ARMA 8x8 (Thổ Nhĩ Kỳ) — 24 tấn, BTR-4 "Bucephalus" (Ukraina) — 21,9 tấn. — Ed.)