Phán quyết của họ: sự sụp đổ sắp xảy ra sẽ tồi tệ hơn tất cả những cuộc khủng hoảng trước đó.
Tình huống tương tự
Mười một năm trước, cuộc suy thoái toàn cầu đã bắt nguồn từ cuộc khủng hoảng thế chấp ở Hoa Kỳ. Khi đó, nhu cầu vay ở Mỹ đã giảm mạnh, và các ngân hàng đã sáng tạo ra một sản phẩm mới - "thế chấp dưới chuẩn” được hiểu là các khoản cho vay các đối tượng có mức tín nhiệm thấp.
Để giảm thiểu rủi ro vỡ nợ vốn là rất cao đối với các sản phẩm cho vay thế chấp mua nhà, các ngân hàng bắt đầu sử dụng công cụ chứng khoán phái sinh. Tức là, quy định quyền lợi và/hoặc nghĩa vụ của các bên tham gia hợp đồng đối với việc thanh toán và/hoặc chuyển giao tài sản cơ sở với một mức giá được thỏa thuận trước vào một thời điểm nhất định trong tương lai: chứng khoán phái sinh chứa đựng ít hơn rủi ro có sinh lời thấp hơn và chứng khoán chứa đựng nhiều rủi ro có sinh lời cao.
Các nhà đầu tư ồ ạt đổ tiền mua các công cụ "rủi ro thấp" cho đến khi thấy rõ rằng, tổng nợ các khoản vay thế chấp đạt mốc kỷ lục trong toàn bộ thời gian quan sát. Các ngân hàng hoảng sợ, đình chỉ phát hành thế chấp mới, kinh doanh mua bán nhà đã dừng lại.
Vào nửa đầu năm 2008, Lehman Brothers, một trong những ngân hàng lớn nhất thế giới, đã thua lỗ hàng trăm triệu đô la từ các hoạt động với trái phiếu thế chấp. Ngân hàng đầu tư lớn thứ tư trên thế giới với tài sản trị giá 639 tỷ USD đã nộp đơn xin bảo hộ phá sản và yêu cầu bảo vệ ngân hàng trước các chủ nợ. Bản tin này đã gây ra cơn hoảng loạn trên thị trường thế giới, và cuộc khủng hoảng trên thị trường thế chấp Mỹ biến thành thảm họa toàn cầu.
Một cú sốc tương tự là cuộc khủng hoảng tại Châu Á đã bùng nổ cách đây ba thập kỷ. Khi đó, các quỹ đầu tư quốc tế đã tổ chức một cuộc tấn công đầu cơ quy mô lớn vào đồng baht của Thái Lan dẫn đến sự sụp đổ của thị trường chứng khoán ở nước này. Cuộc khủng hoảng ở Thái Lan đã tác động đến Indonesia, Philippines, Malaysia, Hàn Quốc và cuối cùng dẫn đến cảnh vỡ nợ ở Nga. Các nhà đầu tư đã rút vốn đồng loạt khỏi các nền kinh tế đang phát triển.
Hệ thống cho vay thiếu vắng tính minh bạch, thâm hụt thương mại khổng lồ và thị trường vốn kém phát triển ở các quốc gia được gọi là các Con hổ châu Á vào thập niên 70 của thế kỷ trước - đây là các nguyên nhân dẫn đến thảm họa: các sàn giao dịch chứng khoán của châu Á gần như ngừng hoạt động và các đồng tiền mạnh bị mất giá.
Ngân hàng Thế giới gọi hai thảm họa này cùng với cuộc khủng hoảng Mỹ Latinh vào những năm 1980 là các cuộc khủng hoảng lớn nhất trong 50 năm qua. Sau khi phân tích các xu hướng kinh tế ở vài chục quốc gia, các nhà phân tích của WB đã đưa ra kết luận rằng, thế giới đang đứng bên bờ vực của một cuộc khủng hoảng tài chính mới, nó sẽ không giống các cuộc khủng hoảng trước đó và sẽ mang lại hậu quả tồi tệ hơn.
Ngân hàng Thế giới nhìn thấy vấn đề chính trong gánh nặng nợ đang gia tăng nhanh chóng trên toàn thế giới trong cả khu vực tư nhân và công cộng. Tổng nợ của thế giới đạt 246 nghìn tỷ USD. Đây là một kỷ lục tuyệt đối, gấp hơn ba lần GDP toàn cầu - trị giá của tất cả các sản phẩm và dịch vụ trên hành tinh.
Các quốc gia với thị trường mới nổi đã đóng góp lớn nhất vào sự gia tăng nợ toàn cầu. Tỷ lệ nợ so với GDP của các nước đang phát triển đã lên đến 168% ở giai đoạn từ năm 2010 đến 2018. Và tỷ lệ này đang gia tăng nhanh hơn nhiều so với thời gian, ví dụ, trước cuộc khủng hoảng Mỹ Latinh.
Như Viện Tài chính Quốc tế đã chỉ ra trước đó, chính các thị trường mới nổi đã đóng góp nhiều nhất vào sự gia tăng nợ toàn cầu. Mức tăng nợ cao nhất được ghi nhận ở Chile, Hàn Quốc, Brazil, Nam Phi và Pakistan. Hơn nữa, trong khu vực doanh nghiệp các khoản nợ tăng nhiều nhất, gần như bằng tổng GDP của 30 quốc gia đang phát triển - 92,6%.
Tâm chấn vụ nổ
Ngân hàng Thế giới nhấn mạnh rằng, nợ công của Trung Quốc đã tăng nhanh nhất trong mười năm qua. Kể từ năm 2010, tổng số nợ theo tỷ lệ so với GDP đã tăng gần 3/4 - vọt lên tới 255 % và tổng số nợ vượt quá 20 nghìn tỷ USD.
Do đó, theo các chuyên gia của Ngân hàng Thế giới, cuộc khủng hoảng mới sẽ bắt nguồn từ Trung Quốc. Và cuộc khủng hoảng mới sẽ có quy mô lớn hơn và sẽ tồi tệ hơn so với những khủng hoảng trước đó.
Nợ doanh nghiệp của Trung Quốc là lớn nhất thế giới. Khi bùng nổ cuộc khủng hoảng tài chính năm 2008, Trung Quốc đã phản ứng bằng cách mở rộng cho vay. Vào năm 2016, ở Trung Quốc tỷ lệ nợ doanh nghiệp trên GDP đạt khoảng 160%, và tổng nợ công — 230%.
Là một phần của chương trình chiến lược "Made in China - 2025", trong những năm gần đây, Bắc Kinh ồ ạt mua những công ty phương Tây để tiếp cận các công nghệ tiên tiến nhất. Trong nỗ lực vượt trước các đối thủ nước ngoài, các công ty Trung Quốc đã tích cực vay tín dụng. Chỉ riêng trong năm ngoái, theo Ngân hàng Thanh toán Quốc tế, nợ doanh nghiệp của Trung Quốc đã tăng 3,8 điểm phần trăm. Để so sánh, nợ công đã tăng 0,8 điểm phần trăm, trong khi nợ hộ gia đình tăng 0,9 điểm phần trăm.
Ngành ngân hàng "bóng tối" (shadow banking) hỗ trợ các công ty Trung Quốc vay tiền: lĩnh vực này đã mở rộng đến một quy mô đáng báo động. Các ngân hàng Trung Quốc ngày càng sẵn sàng tài trợ cho các nhà môi giới và các nhà cho vay, những người đóng vai trò trung gian giữa các ngân hàng và doanh nghiệp.
Kể từ năm 2012, thị trường cho vay của Trung Quốc đã thay đổi: các ngân hàng "bóng tối" đã trở nên nổi tiếng, đặc biệt là các khoản vay giá trị thấp cho cá nhân và cho vay tín chấp. Các cơ chế tín dụng này được tạo ra để mang lại cho các nhà đầu tư lợi nhuận cao, nhưng, chúng đi kèm với rủi ro lớn hơn nhiều. Nhờ các ngân hàng bóng tối này, gánh nặng nợ của các công ty Trung Quốc tiếp tục gia tăng.
Bây giờ ngành ngân hàng ngầm của Trung Quốc đạt gần 7 nghìn tỷ đô la. IMF đã cảnh báo: bong bóng này có thể dẫn đến sự sụp đổ của nền kinh tế Trung Quốc và gây ra một cuộc khủng hoảng mới ở châu Á, tương tự như sự sụp đổ năm 1997.