Chiến tranh biên giới Việt-Trung 1979 nổ ra như thế nào?
Chiến tranh biên giới Việt-Trung 1979 vẫn còn mãi trong tâm khảm nhiều người Việt. Với nghị lực, ý chí, lòng yêu nước, chiến thuật quân sự khôn ngoan, và tinh thần đoàn kết, quân đội và nhân dân Việt Nam đã đánh đuổi được kẻ thù, không để Tổ quốc lâm nguy.
Chiến tranh biên giới 1979 hay chiến tranh biên giới Việt- Trung năm 1979 nổ ra vào ngày 17 tháng 2 năm 1979 khi Trung Quốc đưa quân tấn công Việt Nam trên toàn tuyến biên giới giữa 2 nước gồm 6 tỉnh với chiều dài 1.200km.
Trước đó, báo Nhân dân số 8979 ra ngày 4.1.1979 đưa tin khẳng định Trung Quốc tăng cường nhiều hoạt động thù địch chống lại Việt Nam. Theo đó, bản tin dẫn nguồn TTXVN cho hay:
“Mấy ngày đầu năm 1979, phía Trung Quốc đẩy mạnh hoạt động xâm phạm chủ quyền lãnh thổ Việt Nam, nổ súng, bắt cóc người, gây không khí thù địch căng thẳng ở biên giới. Hồi 13h ngày 3.1.1979, phía Trung Quốc cho lực lượng vũ trang xâm nhập lãnh thổ Việt Nam ở phía tây mốc số 116 thuộc xã Sóc Hà, huyện Hà Quảng, Cao Bằng”.
Tiếp đến, ngày 30.1.1979, Hà Nội mới đưa tin nói lính Trung Quốc lại vượt biên xâm phạm lãnh thổ Việt Nam, nổ súng gây căng thẳng. Theo đó, lúc 10h ngày 29.1.1979 (mùng 2 Tết Kỷ Mùi), khoảng 150 lính Trung Quốc đã tiến sâu vào đất ta hơn 800m thuộc khu vực mốc 23 (xã Bảo Lâm, huyện Văn Lãng, tỉnh Lạng Sơn) bao vây một tổ dân quân và công an vũ trang của ta đang làm nhiệm vụ bảo vệ biên giới tại đây.
Bộ Ngoại giao Việt Nam đã công bố “Bị vong lục” về việc chính quyền Trung Quốc tăng cường hoạt động vũ trang ở biên giới với Việt Nam và đang chuẩn bị cho một cuộc chiến.
“Bị vong lục” của Bộ Ngoại giao Việt Nam dẫn thông tin trên tạp chí Kinh tế Viễn Đông ngày 9.2.1979 cho hay “dọc biên giới Trung - Việt, Trung Quốc đã triển khai khoảng 160.000 quân, 700 máy bay chiến đấu, trong đó có cả máy bay ném bom F9 do Trung Quốc chế tạo”.
Đến rạng sáng ngày 17.2.1979, Trung Quốc bất ngờ đưa quân tràn qua biên giới với Việt Nam, đồng loạt tấn công 6 tỉnh giáp ranh.
Khi đó, Quân đội Nhân dân số 6348 ra ngày 18.2.1979 đăng tải nhiều tin, bài, xã luận về hành động của Trung Quốc tại biên giới phía Bắc Việt Nam.
Trên trang nhất nổi bật thông tin Trung Quốc đã phát động cuộc chiến tranh xâm lược trên toàn tuyến biên giới phía Bắc nước ta. Tin đầu tiên cho biết “Quân và dân vùng biên giới đã chiến đấu hết sức dũng cảm, diệt nhiều tên Trung Quốc xâm lược, phá hủy và bắn cháy hàng chục xe tăng”.
“Rạng sáng ngày 17.2.1979, nhà cầm quyền Trung Quốc huy động lực lượng lớn quân đội gồm bộ binh, pháo binh, thiết giáp mở cuộc tiến công xâm lược lãnh thổ nước ta trên toàn tuyến biên giới từ Phong Thổ, Lai Châu đến thị xã Móng Cái, thuộc tỉnh Quảng Ninh”, bản tin khẳng định.
“Chúng đã dùng pháo tầm xa bắn phá bừa bãi vào các thị xã, thị trấn, các vùng đông dân cư, các làng bản, để mở đường cho thiết giáp, bộ binh đánh sâu vào đất ta”, QĐND cho hay đồng thời khẳng định, quân và dân các địa phương vùng biên giới đã chiến đấu hết sức dũng cảm, diệt nhiều kẻ xâm lược, phá hủy và bắn cháy hàng chục xe tăng của chúng.
“Cuộc chiến đấu chống quân Trung Quốc xâm lược ở biên giới phía Bắc của Tổ quốc đã bắt đầu”, bản tin nhấn mạnh.
Trung Quốc thừa nhận: Chiến thuật tấn công Việt Nam là một thảm họa?
Cuộc tấn công tràn qua biên giới Việt Nam được chính quyền Bắc Kinh phát động và hơn 60 vạn lính Trung Quốc dưới sự yểm trợ của gần 800 xe tăng, xe bọc thép, pháo, trang vũ khí thiết bị hiện đại, xâm phạm ranh giới Việt Nam ngày 17.2.1979.
Quân đội và nhân dân Việt Nam quyết liệt chống trả, thà hy sinh thân mình để bảo vệ tổ quốc, đến ngày 5.3.1979 Trung Quốc tuyên bố “mục tiêu đã hoàn thành” và rút quân nhưng kể cả trong những năm sau đó, rải rác vẫn còn nhiều vùng biên giới của Việt Nam bị phía Trung Quốc kiểm soát.
Sau chiến tranh biên giới 1979, giới khoa học quân sự Trung Quốc đã đưa ra nhiều nhân định liên quan đến những góc độ khác nhau của cuộc chiến này.
Tư liệu lịch sử được chính phía Trung Quốc thừa nhận và các học giả quốc tế đúc kết lại trong hai cuốn sách “Những bài học lịch sử: Quân đội Giải phóng Nhân dân Trung Quốc kỷ niệm 75 năm của nhóm tác Larry Wortzel, Laurie Burkitt và Andrew Scobell và “Anh em kẻ thù: Chiến tranh nối tiếp chiến tranh” của Nayan Chanda do Trí Thức Trẻ dẫn lại phản ánh những bài học, nguyên nhân vì sao chiến thuật quân sự của Trung Quốc không hiệu quả đối với quân và dân Việt Nam.
Tác giả Nayan Chanda, sáng lập viên kiêm Tổng biên tập Tạp chí YaleGlobal Online, phóng viên kỳ cựu của Tạp chí Kinh tế Viễn Đông, biên tập viên của Tuần báo Asian Wall Street Journal và thành viên cao cấp của Quỹ Carnegie vì Hòa bình Quốc tế ở Washington.
Trong cuốn “Anh em kẻ thù: Chiến tranh nối tiếp chiến tranh” (Brother Enemy: The War After the War) dưới góc nhìn của nhà báo am tường lịch sử Đông Dương cũng như vốn hiểu biết phong phú về cuộc chiến tranh biên giới phía Bắc năm 1979. Tác giả Chanda đã chỉ ra những bài học và thất bại mà Bắc Kinh phải trả giá qua cuộc chiến tranh phi nghĩa.
Nhà báo Nayan Chanda, Bắc Kinh đã thực hiện chiến thuật tấn công, xâm lược Việt Nam theo cách mà vương triều nhà Thanh thực hiện năm 1788 nhưng sử dụng vũ khí thế kỷ 20. Do đó, thất bại là điều đã được báo trước với quân đội Trung Quốc.
Trong cuốn “Những bài học lịch sử: Quân đội Giải phóng Nhân dân Trung Quốc kỷ niệm 75 năm” của nhóm tác Larry Wortzel, Laurie Burkitt và Andrew Scobell, nhóm tác giả bình luận rằng, theo mệnh lệnh cấp trên, giáo viên, và học viên Trường Quân chính Quân khu Quảng Châu đã tham gia các quân đoàn tấn công Việt Nam từ tỉnh Quảng Tây do Hứa Thế Hữu- Tư lệnh Đại quân khu Quảng Châu chỉ huy.
Số cán bộ và binh lính thuộc trường quân chính này được biên chế cho Quân đoàn 41 và 42 trong quá trình chúng tấn công vào Cao Bằng và tham gia Quân đoàn 43 và 55 khi tấn công Lạng Sơn. Do số binh lính này hiểu rất rõ cách thức huấn luyện chiến đấu của Quân giải phóng Nhân dân Trung Quốc (PLA) nên chúng hiểu được cách thức PLA chiến đấu trên thực tế. Bởi vậy, theo nhóm tác giả, những bài học mà lực lượng này rút ra được từ thất bại ở Việt Nam là rất đáng quan tâm.
Tác giả Nayan Chanda cho biết, Trung Quốc đã huy động hàng trăm pháp tầm xa 130mm và 122mm cùng hỏa tiễn phóng loạt 140mm điên cuồng tấn công toàn tuyến biên giới Việt Nam với “tốc độ gần như một quả/giây”.
Một phóng viên người Mỹ có mặt tại vùng biên giới Việt Nam khi đó đã viết:
“Hỏa lực dày đặc tới mức nó gần giống với tiếng oanh tạc của máy bay B-52. Có thời điểm, cuộc nã pháo kéo dài tới 20 phút, chứ không phải một phút hay ít hơn như thường thấy trong các đợt không kích của Mỹ”.
Theo tác giả, giống như những đợt thác lũ tràn qua đập, 85.000 ngàn lính Trung Quốc, dưới sự yểm trợ của thiết giáp, đã tràn sang Việt Nam tại 26 địa điểm dọc theo biên giới.
Áp dụng chiến thuật “biển người” thời chiến tranh Triều Tiên, Quân giải phóng Nhân dân Trung Quốc đã đẩy hàng ngàn binh sĩ để cố gắng đánh bật quân du kích và bộ đội biên phòng Việt Nam trên những ngọn đồi và khu vực thung lũng.
“Các pháo thủ Trung Quốc không biết cách đo xa và tính toán dữ liệu khai hỏa. Hệ quả là, pháo binh Trung Quốc không thể yểm trợ gián tiếp một cách hiệu quả. Hỏa lực pháo binh Trung Quốc chỉ giới hạn ở những vụ tập kích ồ ạt quy mô lớn vào các cấu trúc địa hình rộng lớn hoặc bắn không chính xác vào các mục tiêu nhỏ hơn. Trung Quốc rõ ràng không có một quy trình chỉ huy chiến đấu. Do đó, "pháo binh nước này chẳng hơn là mấy pháo binh thời Napoleon hay thời kỳ đầu của cuộc nội chiến nước Mỹ”, học viên của trường Quân chính Quân khu Quảng Châu thừa nhận.
Chính Bắc Kinh sau đó đã thừa nhận, “chiến thuật này là một thảm họa”.
Trung Quốc không hiểu về sức mạnh quân sự Việt Nam?
Bên cạnh đó, theo các học viên và sĩ quan trường Quân chính Quân khu Quảng Châu nhận định, lính Trung Quốc đã sử dụng những chiến thuật bộ binh sơ đẳng, kém cỏi. Mặc dù bộ binh Trung Quốc có thể gây ra những thương vong lớn nhưng các đợt tấn công ồ ạt vốn được giới quân sự Trung Quốc ưa chuộng luôn phải chuốc lấy thất bại.
Bài học tiếp theo mà các học giả quốc tế thừa nhận đó chính là dù Trung Quốc có số quân chiếm áp đảo nhưng Việt Nam lại tận dụng được điểm yếu này của Trung Quốc khi xây dựng các hệ thống hầm hào vũng chắc và cài mìn xung quanh đó.
Theo đó, trong các chiến dịch tấn công, học viên của trường Quân chính Quân khu Quảng Châu nhận thấy rằng các binh lính PLA, ít nhất là những lính thuộc Quân đoàn 43 không thể phát hiện và tháo dỡ các bãi mìn.
Trong khi đó, theo Chanya Nanda, quân đội Trung Quốc đã không lường trước được sự lợi hại của hệ thống hầm hào và công sự chằng chịt mà phía Việt Nam đã xây dựng từ trước để bảo vệ vùng biên giới.
Đặc biệt, theo báo cáo từ trường quân chính Quân khu Quảng Châu, người dẫn đường tên Niu Chengju nhận thấy, khi tiến công Việt Nam, cả một trung đoàn Trung Quốc không thể thực hiện được nhiệm vụ vì “các chỉ huy đơn vị có kiến thức nghèo nàn về địa hình, địa mạo cũng như khả năng đọc bản đồ yếu kém”.
Thông tin trên sau này được chính học giả gốc Trung Quốc Xiaoming Zhang khẳng định thêm trong bài báo xuất bản năm 2015 có tựa đề “Chiến tranh Trung Quốc với Việt Nam năm 1979: Sự đánh giá lại” (China’s 1979 War with Vietnam: A Reassessment)”.
Theo học giả Xiaoming Zhang, các đánh giá về địa lý và địa hình của Quân Giải phóng nhân dân Trung Quốc ở miền Bắc Việt Nam thường dựa trên những bản đồ và thông tin địa lý đã lỗi thời, trong khi khả năng trinh sát chiến trường lại rất hạn chế.
“Một trong những sai lầm lớn của quân Trung Quốc là đánh giá sai về lực lượng dân quân đông đảo khi dự đoán về sức mạnh quân sự Việt Nam. Dân quân Việt Nam đã thể hiện sức đề kháng không hề nao núng và thực hiện các cuộc tấn công bất ngờ cản đường quân xâm lược”, học giả Trung Quốc nhận định.
Ban đầu, giới lập kế hoạch quân sự PLA tin rằng họ đã tập hợp được một lực lượng vượt trội với tỷ lệ 8:1 để tấn công Việt Nam. Thế nhưng, trên thực tế, chỉ tính riêng tại Cao Bằng đã có 40.000 - 50.000 dân quân, khiến tỷ lệ lực lượng Trung Quốc chỉ còn hơn Việt Nam là 2:1.
“Chỉ trong vòng 3 ngày lâm trận, Trung Quốc đã phải gánh chịu những thiệt hại nặng nề với số thương vong rất cao do hàng ngàn binh lính bị chia cắt bởi hệ thống súng máy bắn ra từ các công sự chiến đấu và dính mìn”, các học giả cho biết.
Quân đội Trung Quốc tổn hại nặng nề vì quá lạc hậu?
Theo những học giả quốc tế, phía Trung Quốc đã sớm nhận ra mức độ khắc nghiệt của cuộc chiến khi phải “đi một đôi giày và mặc một bộ quần áo trong suốt hơn 10 ngày”. Bên cạnh đó là việc thiếu lương thực và nước uống. Việt Nam đã chiến đấu quả cảm trước quân Trung Quốc. Chưa tới một tuần tham chiến khi chiến dịch bước vào giai đoạn khốc liệt nhất, các đơn vị Trung Quốc bắt đầu kêu ca về tình trạng thiếu lương thực và nước uống.
Đơn vị 53514, Quân đoàn 55 Trung Quốc tham gia trận đánh ở điểm cao chiến lược gần Lạng Sơn báo cáo cho biết: “Đơn vị cấp cao không gửi thức ăn trong nhiều ngày và binh lính đã không được ăn trong 2 ngày qua”. Đơn vị 53515 cũng báo cáo về tình trang thiếu hụt lương thực và thức uống tương tự.
Trên thực tế, hệ thống hậu cần của Trung Quốc, mặc dù tuyến tiếp ứng chỉ cách Việt Nam 4-5 km và cách đường ray Bằng Tường chỉ chưa tới 30 km, rõ ràng đã thất bại. Tình trạng này xảy ra gần Lạng Sơn nhưng hệ thống hậu cần yếu kém đã gây ra những sự vụ tương tự ở các địa bàn khác như Lào Cai hay Cao Bằng.
Tác giả Nayan Chanda, khi đánh giá tổng quát nhìn lại cuộc chiến tranh biên giới phía Bắc năm 1979 ông nhận định, Việt Nam chẳng những không phải học bài học nào của Trung Quốc như giới cầm quyền Bắc Kinh dọa nạt, mà ngược lại Hà Nội còn dạy cho Bắc Kinh một bài học.
“Quân đội Trung Quốc khi đó thực tế không đủ khả năng và trình độ để thực hiện một cuộc chiến tranh hiện đại. Những tổn thất nặng nề mà họ phải hứng chịu trong cuộc chiến cũng như sự thất bại về vũ khí và chiến thuật là lời cảnh báo về sự lạc hậu của Quân đội Trung Quốc”, tác giả Nayan Chanda khẳng định.
Chia sẻ về cuộc chiến biên giới phía Bắc 1979, Trung tướng Nguyễn Hữu Khảm - nguyên Phó Tổng Tham mưu trưởng Quân đội Nhân dân Việt Nam, nguyên Sư đoàn trưởng Sư đoàn 316, người lính chiến dày dạn kinh nghiệm. Ông đã có 10 năm chiến đấu tại biên giới phía Bắc (1979-1989) chia sẻ, chính sự quyết tâm, anh dũng trong chiến đấu mà quân và dân ta để bảo vệ từng tấc đất của Tổ quốc.
“Chiến tranh, máu, nước mắt và đau thương. Để bờ cõi miền biên viễn được bình yên, hàng nghìn thanh niên trai tráng, bộ đội, quân và dân ta đã ngã xuống. Tất cả một lòng vì tinh thần quyết tử cho tổ quốc quyết sinh. Những ngôi mộ liệt sĩ “chưa biết tên” đã làm nên tên tuổi của một dân tộc anh hùng. Chúng ta không bao giờ tạo ra những hận thù, cũng không bao giờ gây ra thù hận lâu dài, nhưng chúng ta không được quên lãng và lãng quên những bài học của lịch sử. Không bao giờ được quên bài học của tình quân dân, tình đoàn kết vượt qua mọi kẻ thù”, Trung tướng Nguyễn Hữu Khảm nhấn mạnh.