Việt Nam có đủ lương thực cho người dân?

Dù là một trong những quốc gia xuất khẩu gạo hàng đầu thế giới nhưng vì sao an ninh lương thực Việt Nam chỉ xếp thứ 57/113 quốc gia?
Sputnik

Giữa tình hình dịch Covid-19, bất ổn chính trị, kinh tế xã hội toàn cầu, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc yêu cầu phải đảm bảo an ninh lương thực trong bất cứ hoàn cảnh nào. Không để ai phải đói hay bị bỏ lại phía sau.

Từ thiếu ăn, Việt Nam đã là nước xuất khẩu gạo hàng đầu thế giới

Sáng 18.3, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc chủ trì Hội nghị trực tuyến toàn quốc tổng kết 10 năm thực hiện Kết luận 53 của Bộ Chính trị về Đề án “An ninh lương thực quốc gia đến năm 2020”.

Cùng dự có Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng, Trưởng Ban Kinh tế Nguyễn Văn Bình.

Bí quyết thành công trận đầu của Việt Nam trong cuộc đấu chống coronavirus

Phát biểu khai mạc Hội nghị trực tuyến toàn quốc về vấn đề an ninh lương thực, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc nhắc lại tình hình dịch bệnh Covid-19 đang diễn biến hết sức phức tạp. Người đứng đầu Chính phủ yêu cầu lãnh đạo chính quyền 63 tỉnh, thành phố dự Hội nghị, trong đó có hơn 40 Ủy viên Trung ương tại các đầu cầu địa phương, thực hiện nghiêm chỉ đạo của Ban Bí thư, Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ về thực hiện quyết liệt các nhiệm vụ chống dịch.

Việt Nam có đủ lương thực cho người dân?
“Chúng ta phải quyết ngăn chặn cho được đại dịch này. Đây là nhiệm vụ trọng tâm số một của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân, vì dịch ảnh hưởng trực tiếp đến tính mạng, sức khỏe của nhân dân”, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc nhấn mạnh.

Đồng thời, lãnh đạo Chính phủ cũng nêu rõ, Việt Nam phải thực hiện nhiệm vụ kép – tức vừa chống dịch hiệu quả, vừa phải giữ vững ổn định đời sống nhân dân, nhịp độ sản xuất và duy trì tăng trưởng kinh tế- xã hội cũng như các lĩnh vực khác.

Giữa lúc đại dịch Covid-19 bùng phát, Hội nghị trực tuyến này được tổ chức nhằm hướng đến việc thảo luận công tác đảm bảo an ninh lương thực. Đây là nhiệm vụ hết sức quan trọng, trong bất cứ hoàn cảnh nào cũng phải ưu tiên để đảm bảo cuộc sống, nhu yếu phẩm cho người dân. Không để ai bị đói hay bị bỏ lại phía sau như Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc đã từng khẳng định.

Chia sẻ tại Hội nghị đánh giá 10 năm thực hiện Đề án an ninh lương thực quốc gia đến năm 2020, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc đánh giá, đây là lúc nhìn lại toàn diện, đánh giá một cách căn bản, rút ra các vấn đề lớn về an ninh lương thực của đất nước. Sản phẩm sau hội nghị, sắp tới, Chính phủ sẽ trình Bộ Chính trị Dự thảo Kết luận của Bộ Chính trị về an ninh lương thực, trình Quốc hội Dự thảo Nghị quyết về an ninh lương thực quốc gia thời gian tới.

Gạo Việt Nam có "đối thủ mới"- Trung Quốc

Theo lãnh đạo Chính phủ, nông nghiệp nói chung, đặc biệt sản xuất lương thực của Việt Nam đã đạt nhiều thành tựu lớn, toàn diện. Cụ thể, Việt Nam từng là đất nước thiếu ăn, nhưng đến nay, lương thực bình quân đầu người đạt trên 525kg, là 1 trong 3 nước đứng đầu thế giới về xuất khẩu lương thực, cụ thể là gạo, đạt từ 6,5 đến 7 triệu tấn/năm. Với việc Việt Nam ứng dụng mạnh mẽ khoa học công nghệ và công tác nghiên cứu vào sản xuất nông nghiệp, nước ta đã có thương hiệu gạo ngon nhất thế giới được công nhận trong năm 2019. Cùng với đó, đời sống người nông dân được cải thiện tốt, lợi nhuận người trồng lúa đạt tối thiểu 30% so với giá thành sản xuất..

Tuy nhiên, không chỉ đánh giá về thành tích, đồng chí Nguyễn Xuân Phúc còn yêu cầu các đại biểu nhìn nhận đúng, khách quan, giá những mặt được, chưa được sau 10 năm thực hiện Kết luận 53 của Bộ Chính trị, đồng thời nhìn rộng ra kết quả sau hơn 30 năm đổi mới.

“Dù không thể phủ nhận các thành tích vượt trội, nhưng cần bàn về những yếu kém của nông nghiệp nước ta và an ninh lương thực nói riêng trong hội nghị này. Vì sao tôi nói vậy? Vì sao chúng ta xuất khẩu gạo đứng đầu thế giới, nhưng an ninh lương thực chỉ xếp 57/113 quốc gia”, lãnh đạo Chính phủ đặt vấn đề.

Việt Nam cần chú trọng an ninh lương thực trong bất ổn toàn cầu

Theo đó, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc nêu vấn đề, đối với diện tích sản xuất đất nông nghiệp như hiện nay, giữ lại diện tích đất lúa bao nhiêu là phù hợp? Những hạ tầng nào cần tiếp tục đầu tư trong sản xuất nông nghiệp? Vấn đề công nghiệp chế biến và thất thoát sau thu hoạch giải quyết ra sao? Sản lượng lớn nhưng xuất khẩu lương thực đạt hiệu quả đến đâu? Vai trò của doanh nghiệp, hợp tác xã trong các vấn đề này như thế nào…Theo Thủ tướng, đây là bài toán khó cần được thảo luận.

Liệu Việt Nam có vượt Thái Lan trở thành nước xuất khẩu gạo thứ 2 thế giới?

Tại Hội nghị, người đứng đầu chính phủ, yêu cầu các đại biểu, nhất là những nhà khoa học nêu giải pháp sắp tới, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc nhấn mạnh, mong muốn các nhà khoa học đóng góp ý kiến về các biện pháp lớn, phạm vi quốc gia. Tinh thần mà Việt Nam cần xác định chính là “phải đảm bảo an ninh lương thực trong bất cứ hoàn cảnh nào”.

Theo Thủ tướng, an ninh lương thực không phải chỉ là vấn đề trước mẳ mà còn mang tính chiến lược và lâu dài. Việc xuất khẩu, đóng góp cho an ninh lương thực thế giới là cần thiết nhưng trước hết phải lo cho gần 100 triệu dân của Việt Nam.

Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc nhắc lại sự việc xảy ra thời gian qua khi dịch Covid-19 bùng phát, thị trường nhốn nháo, nhất là có việc người dân mua lương thực, mì tôm dự trữ. Thủ tướng Việt Nam đã phải điện thoại chỉ đạo lãnh đạo Tổng Công ty lương thực miền Bắc đư alương thực bán đầy đủ cho dân, bán đến cả 23h đêm để đảm bảo bình ổn và đáp ứng nhu cầu của người dân.

Việt Nam có đủ lương thực cho người dân?
“Điều đó cho thấy nếu chúng ta không có lương thực thì thực hiện làm sao được điều này? Cho nên dự trữ lương thực, ổn định trong mọi điều kiện rất quan trọng. Đây là mặt hàng chính yếu, chiến lược và không được coi thường”, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc.

Thủ tướng nêu rõ, hiện đang ở kỷ nguyên 4.0 - cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư, tương tác với thế giới ảo, nhưng chúng ta không được “ảo”.. An ninh lương thực luôn luôn là vấn đề hệ trọng với mọi quốc gia, nhất là trong bối cảnh bất ổn chính trị, biến đổi khí hậu liên tục xảy ra, đặc biệt là an ninh phi truyền thống như bệnh tật xảy ra.

“Do đó, đảm bảo an toàn, ổn định cho người dân là trách nhiệm của Đảng, Nhà nước chúng ta”, lãnh đạo Chính phủ nhấn mạnh.

Người Việt bắt đầu ăn thịt nhiều hơn

Theo báo cáo của Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, trong giai đoạn 10 năm triển khai Kết luận 53 của Bộ Chính trị, toàn ngành nông nghiệp duy trì tốc độ tăng trưởng 2,61%/năm. Năng suất lúa của Việt Nam cao nhất Đông Nam Á đạt 5,6 tấn/ha, gần gấp đôi so với Thái Lan và gấp 1,5 lần so với Ấn Độ. Ngoài ra, năng suất cà phê cao gấp 1,5 lần so với Brazil, gấp 3 lần so với Colombia, Indonesia, năng suất hồ tiêu gấp 3 lần so với Indonesia và 1,3 lần của Ấn Độ, năng suất cá tra bình quân đạt 209 tấn/ha, cao nhất thế giới

Sức tiêu thụ thịt heo vẫn giảm

Sau 10 năm thực hiện, Đề án cho nhiều kết quả tịch cực. 12 chỉ tiêu đã đạt và vượt so với mục tiêu đề ra, trong đó đáng chú ý điện tích đất lúa cả nước năm 2018 đạt trên 4,159 triệu ha (vượt mục tiêu đề ra tại Nghị quyết là 3,76 triệu ha); sản lượng lúa năm 2019 đạt 43,4 triệu tấn (vượt mục tiêu đề ra 41-43 triệu tấn); xuất khẩu gạo năm 2019 đạt 6,34 triệu tấn (vượt mục tiêu đề ra 4 triệu tấn).

Xuất khẩu hàng nông sản của Việt Nam được tiếp tục đẩy mạnh. Theo đó, có 7 mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu trên 1 tỷ USD/năm, bình quân mỗi năm xuất khẩu khoảng 5-7 triệu tấn gạo. Xuất hiện nhiều mô hình sản xuất nông nghiệp sạch, ứng dụng công nghệ cao, nông nghiệp hữu cơ được đầu tư phát triển, góp phần ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, giải quyết việc làm, giảm nghèo.

“Việt Nam có khả năng đảm bảo tự cung lương thực với sản lượng lương thực bình quân tính trên đầu người ở mức tương đối cao (đứng thứ 6 trên thế giới)”, báo cáo của Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn cho biết.

Ở Việt Nam, tình trạng thiếu dinh dưỡng được cải tiến đáng kể, từ mức trên 18% giai đoạn trước đó xuống còn gần 11% hiện nay. Lượng gạo ăn bình quân đầu người giảm từ 132kg năm 2008 xuống còn gần 97kg năm 2018.

Đáng chú ý, cũng theo các thời điểm này, trong khi giảm tiêu thụ cơm, gạo, lượng thịt ăn bình quân đầu người tăng từ 17kg lên 26 kg.

Gạo Việt Nam đoạt giải “Gạo ngon nhất thế giới”

Ngoài ra, công tác đào tạo nguồn nhân lực ngành nông nghiệp, công tác đào tạo nghề nông nghiệp cho lao động nông thôn được đẩy mạnh triển khai. 10 năm qua cả nước đã đào tạo 9,6 triệu lao động nông thôn. 90% sau học nghề có việc làm mới hoặc tiếp tục việc làm cũ với thu nhập cao hơn.

73% trên tổng số 15.300 hợp tác xã nông nghiệp tại Việt Nam hoạt động hiệu quả. Có tới 12.600 doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp và đồng hành với nông dân.

Tuy nhiên, thu nhập từ sản xuất nông nghiệp ở Việt Nam chưa cao, chưa bền vững nên quy hoạch sử dụng đất cho sản xuất nông nghiệp tại nhiều địa phương không ổn định. Điển hình là tình trạng “được mùa - mất giá”, giải cứu nông sản vẫn phổ biến.

Tác động của biến đổi khí hậu, nước biển dâng, xâm nhập mặn, hạn hán, lũ lụt đe dọa nghiêm trọng đến sản xuất lương thực, đặc biệt là vùng Đồng bằng sông Cửu Long cũng ảnh hưởng nghiêm trọng đến sản lượng gạo cũng như ngành nông nghiệp Việt Nam.

Thảo luận