Về vấn đề này, đại diện Ngân hàng Nhà nước đã lên tiếng khẳng định, Việt Nam điều hành tỷ giá không nhằm tạo lợi thế cạnh tranh trong thương mại quốc tế mà chỉ nhằm kiểm soát lạm phát và ổn định kinh tế vĩ mô.
TS. Trương Văn Phước, thành viên chuyên trách Tổ Tư vấn kinh tế của Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc cũng đề xuất những giải pháp khả dĩ chứng minh rõ ràng hơn, tránh để phía Mỹ “hiểu lầm” về việc Việt Nam phải sử dụng tỷ giá để thao túng tiền tệ hay tạo lợi thế thương mại cạnh tranh.
Việt Nam nói gì về việc bị Mỹ điều tra thao túng tiền tệ?
Đầu năm 2020, Bộ Tài chính Mỹ đã ban hành báo cáo về “Chính sách kinh tế vĩ mô và ngoại hối của các đối tác thương mại lớn của Hoa Kỳ” trong đó công bố danh sách các quốc gia cần giám sát chặt chẽ gồm 10 nước Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, Đức, Italia, Ireland, Singapore, Malaysia, Thụy Sĩ và Việt Nam.
Tuần qua, Phó Thống đốc Ngân hàng Nhà nước (NHNN) Việt Nam bà Nguyễn Thị Hồng đã có những thông tin đáng chú ý về cách thức điều hành chính sách tiền tệ, tỷ giá của Việt Nam trong buổi làm việc với đại diện Bộ Tài chính Mỹ trong khuôn khổ chuyến thăm và làm việc cấp cao của phái đoàn Hoa Kỳ tại Hà Nội.
Tại buổi làm việc, lãnh đạo Ngân hàng Nhà nước Việt Nam nêu rõ, Chính phủ Việt Nam và Ngân hàng Nhà nước với vai trò là Ngân hàng Trung ương luôn điều hành chính sách thận trọng, linh hoạt.
Theo lời bà Nguyễn Thị Hồng, chính sách tiền tệ của Việt Nam có sự điều chỉnh nhằm mục tiêu ổn định kinh tế vĩ mô, nâng cao khả năng chống chịu của nền kinh tế, ngăn ngừa, hạn chế tác động của các cú sốc tiêu cực bên ngoài tới hoạt động kinh tế trong nước.
Bên cạnh đó, theo bà Hồng, việc Ngân hàng Nhà nước điều hành chính sách tỷ giá - trong khung khổ chính sách tiền tệ chung - nhằm đạt các mục tiêu xuyên suốt, nhất quán là “kiểm soát lạm phát và ổn định kinh tế vĩ mô”.
Đáp lại những cáo buộc nghi ngại về “thao túng tiền tệ”, phía Ngân hàng Nhà nước khẳng định chính sách tỷ giá của Việt Nam không nhằm tạo lợi thế cạnh tranh trong thương mại quốc tế, không nhằm hỗ trợ chính sách cho từng ngành sản xuất hay gây thiệt hại cho các đối tác thương mại của Hà Nội.
Về cáo buộc “thao túng tiền tệ”, lãnh đạo Ngân hàng Nhà nước cho biết, theo quy định của “Đạo luật Xúc tiến và tăng cường thương mại” năm 2015 của Hoa Kỳ, Bộ Tài chính Mỹ cần thực hiện phân tích nâng cao về chính sách tỷ giá và kinh tế đối ngoại của các đối tác thương mại lớn thỏa mãn các tiêu chí về thặng dự thương mại song phương với Washington, thặng dư cán cân vãng lai và can thiệp ngoại tệ.
Theo bà Nguyễn Thị Hồng, các tiêu chí này đã được lượng hóa cụ thể tại Báo cáo tháng 1/2020 như sau: Thặng dư thương mại hàng hóa song phương với Hoa Kỳ ít nhất 20 tỷ USD, Thặng dư cán cân vãng lai tương đương ít nhất 2% GDP, Can thiệp một chiều và kéo dài trên thị trường ngoại tệ, thể hiện qua việc mua ròng ngoại tệ trong ít nhất 6 tháng trên giai đoạn 12 tháng với tổng lượng ngoại tệ mua ròng tương đương ít nhất 2% GDP trong giai đoạn 12 tháng.
Theo đó, tại báo cáo vào tháng 5/2019, lần đầu tiên Việt Nam trở thành một trong các quốc gia nằm trong danh sách cần đặc biệt theo dõi của Mỹ vì đáp ứng hai tiêu chí về thặng dư thương mại song phương với Hoa Kỳ và thặng dư cán cân vãng lai.
Tiếp đến tại báo cáo hồi đầu năm 2020, Việt Nam tiếp tục nằm trong “Danh sách giám sát dù chỉ đáp ứng một tiêu chí về thặng dư thương mại song phương: Thặng dư thương mại hàng hóa song phương với Hoa Kỳ 47 tỷ USD, Thặng dư cán cân vãng lai tương đương 1,7% GDP, Can thiệp mua ròng trên thị trường ngoại tệ tương đương 0,8% GDP.
“Tại báo cáo này, Bộ Tài chính Hoa Kỳ lập danh sách giám sát gồm 10 đối tác thương mại lớn, đồng thời kết luận không có đối tác thương mại nào thao túng tiền tệ” – lãnh đạo Ngân hàng Nhà nước khẳng định.
Cùng với đó, bà Hồng cũng bày tỏ, việc Việt Nam tiếp tục nằm trong danh sách giám sát, trong thời gian tới, Bộ Tài chính Hoa Kỳ sẽ tiếp tục theo dõi các thông tin, số liệu về thương mại, cán cân vãng lai, các chính sách kinh tế vĩ mô, tiền tệ của Việt Nam và có thể sẽ tiếp tục trao đổi, làm việc với các cơ quan hữu quan của Việt Nam nếu cần thiết.
Việt Nam làm gì để tránh bị Mỹ “hiểu lầm” thao túng tiền tệ?
Cũng liên quan đến việc Việt Nam vừa qua bị đưa vào danh sách theo dõi của Hoa Kỳ về thao túng tiền tệ, TS. Trương Văn Phước, thành viên chuyên trách Tổ Tư vấn kinh tế của Thủ tướng Chính phủ trao đổi với VGP cũng có nhiều đánh giá đáng lưu ý.
Theo chuyên gia Trương Văn Phước, mục tiêu cân bằng cán cân thương mại, vốn dĩ bị thâm hụt lớn, trở thành một trong những tiêu chí hàng đầu mà những nhà quản lý nền kinh tế Mỹ hướng đến.
Ông Phước nhắc lại ba tiêu chí đó là: Thặng dư cán cân vãng lai quốc gia lớn hơn 2% GDP, thặng dư thương mại với Mỹ lớn hơn 20 tỷ USD, mua ròng ngoại tệ lớn hơn 2% GDP.
Quan điểm của Mỹ cho rằng, thặng dư thương mại hằng năm của Trung Quốc xuất siêu vào Mỹ, chẳng hạn năm 2019 là 345,2 tỷ USD, là do Trung Quốc thao túng tỷ giá hay cụ thể hơn là phá giá đồng Nhân dân tệ dưới giá trị thực của nó. Từ đó, một cách gián tiếp sẽ trợ giá cho hàng xuất khẩu tạo ra lợi thế cạnh tranh không công bằng trong thương mại quốc tế.
“Thực tế thì Chính phủ Mỹ đã đưa ra một danh sách nhiều quốc gia về thao túng tiền tệ, Việt Nam chúng ta nằm trong danh sách theo dõi của Hoa Kỳ. Nhưng theo dõi có nghĩa là chưa kết luận, chưa quy kết nên chúng ta còn cơ hội giải quyết”, vị chuyên gia là thành viên Tổ Tư vấn kinh tế của Thủ tướng Việt Nam nhận định.
“Tôi đồng tình với việc Chính phủ, các bộ, ngành đang và sẽ tiếp tục tăng cường đối thoại với các cơ quan đồng cấp Hoa Kỳ”, ông Trương Văn Phước khẳng định.
Vị chuyên gia cũng cho biết thêm, trong cuộc gặp với Cơ quan Phát triển tài chính Hoa Kỳ, Thủ tướng Chính phủ đã nêu rõ, chính sách tỷ giá của Việt Nam không nhằm mục đích tạo lợi thế cạnh tranh thương mại quốc tế hay hỗ trợ cho từng ngành sản xuất.
Cũng giống như quan điểm nêu trên của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, ông Phước cho rằng, trên thực tế, điều chính phủ quan tâm nhất lúc này là duy trì ổn định kinh tế vĩ mô, lòng tin của người dân, các nhà đầu tư, nếu phá giá mạnh VND, sự xáo trộn có thể gây thiệt hại lớn đối với cả nền kinh tế.
Về cán cân vãng lai thì xuất khẩu ròng tuy có thặng dư nhưng không hề lớn. Thực tế, phần chiếm tỷ trọng lớn trong cán cân vãng lai chính là kiều hối, mà kiều hối thì không phụ thuộc nhiều vào tỉ giá.
Thực tế, có thể thấy xuất khẩu của Việt Nam tăng mạnh trong 5 năm trở lại đây, có thặng dư, không chỉ đối với Mỹ mà còn với nhiều quốc gia khác khi Việt Nam đã ký nhiều hiệp định thương mại tự do với các nước. Trong đó, xuất khẩu của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (FDI) cũng khá lớn.
“Hơn nữa, thời gian gần đây chúng ta cũng đã tăng cường nhập khẩu nhiều hàng hóa, nguyên liệu từ thị trường Mỹ. Cuối cùng, việc mua ròng ngoại tệ là do cán cân thanh toán của Việt Nam thặng dư lớn, tiếp nhận các dòng vốn đầu tư trực tiếp cũng như gián tiếp”, chuyên gia Trương Văn Phước cho hay.
Cũng theo ông, nguyên nhân sâu xa của việc tiền Việt Nam mất giá so với đồng USD thì cần phân tích thực tế trong rổ tiền tệ mà đồng Việt Nam dùng làm tham chiếu với các ngoại tệ của các quốc gia đối tác. Theo đó, lạm phát Việt Nam thường cao hơn và đây mới chính là bản chất sâu xa của việc VND mất giá đối với đô-la Mỹ.
“Tất nhiên, bên cạnh việc giải thích và đối thoại với người Mỹ thì chúng ta cũng cần tăng cường nhập khẩu các hàng hóa thiết yếu, chất lượng, công nghệ cao của Mỹ để làm thặng dư thấp xuống, thậm chí cân bằng trong cán cân thương mại với Mỹ”, ông Phước đề xuất.
Cùng với đó, theo vị chuyên gia, Việt Nam cũng cần phải đa dạng hóa các công cụ phái sinh trong hoạt động ngoại hối để các hoạt động mua bán không chỉ tập trung ở các khoản mục mua ngay, dứt điểm hạch toán vào cán cân thanh toán mà còn sử dụng các hoạt động hoán đổi, vừa mua vừa bán như nhiều ngân hàng trung ương các nước vẫn làm. Xác định rõ, phân định tiêu chí cụ thể thích hợp đối với các khoản mục của cán cân vãng lai và cán cân vốn.
“Làm được những điều này tức là ta chứng minh rõ ràng hơn, tránh để phía Mỹ “hiểu lầm” về việc Việt Nam phải sử dụng tỷ giá để thao túng tiền tệ hay tạo lợi thế thương mại”, chuyên gia Trương Văn Phước nhấn mạnh.
Làm gì để Việt Nam thành quốc gia phồn thịnh?
Cũng liên quan đến tình hình kinh tế vĩ mô của Việt Nam, chuyên gia Phước cho hay, đại dịch Covid-19 làm lung lay cả nền kinh tế trên phạm vi toàn cầu. Do đó, ở mọi quốc gia, nếu không kiểm soát được dịch bệnh thì kinh tế khó lòng tăng trưởng.
“Việt Nam nằm trong số ít quốc gia chế ngự được dịch sớm, đồng thời vận hành nền kinh tế để đạt được mức tăng trưởng dương trong năm 2020 này là một kỳ tích”, thành viên Tổ tư vấn của Thủ tướng bày tỏ.
Tuy nhiên, ông Phước cũng nhận định, để trở thành một quốc gia phồn thịnh, giàu có vẫn còn là một hành trình rất dài. Theo đó, trước mắt là năm 2021 và cả giai đoạn 2021-2025, Việt Nam phải duy trì mức tăng trưởng cao và kinh tế vĩ mô ổn định.
Nền kinh tế phải chuyển động theo hướng lựa chọn một mô hình tăng trưởng tối ưu, mà ở đó các nguồn lực được tập trung phân bổ theo nguyên tắc thị trường, tận dụng những thành quả của cách mạng công nghiệp 4.0, tiếp tục điều chỉnh thể chế để gỡ bỏ những lực cản cho phát triển.
“Tôi cho rằng ba đột phá chiến lược mà Đảng và Nhà nước ta đề ra từ các kỳ Đại hội trước nay vẫn còn nguyên giá trị. Vấn đề là trong giai đoạn sắp tới khi mà thế giới đã có nhiều thay đổi, quy mô của nền kinh tế nước ta cũng đã to lớn hơn nhiều thì cần có những quan điểm, giải pháp đột phá để đất nước tiến lên nhanh hơn”, TS. Trương Văn Phước nhận định.
Thành viên Tổ Tư vấn của Thủ tướng Việt Nam cũng khẳng định, nguồn lực tài chính quốc gia là điều kiện tiên quyết để đưa nền kinh tế tăng tốc.
Theo ông Phước, cải cách một thị trường tài chính theo hướng chuyên nghiệp hơn, tiệm cận với những đặc trưng căn bản của một thị trường tài chính quốc tế sẽ giúp hóa giải những nút thắt mà nền kinh tế Việt Nam thường gặp phải như vốn cho đầu tư phát triển, tài trợ cho bội chi ngân sách, tính thanh khoản cao trong thị trường, chi phí vốn bình quân của xã hội.
Vị chuyên gia cũng nêu rõ, thế giới sẽ tiếp tục có những diễn biến phức tạp. Lựa chọn những bước đi thích hợp, tận dụng những thành tựu của khoa học công nghệ trên thế giới, nắm bắt kịp thời những thời cơ, tạo ra sự đồng thuận, nhất trí cao trong toàn xã hội thì Việt Nam hoàn toàn hy vọng đất nước sẽ có những chuyển biến rất tích cực, đưa Việt Nam trở thành một trong những quốc gia hùng mạnh trong khối ASEAN.