Thắng lợi của Chiến dịch Đường 9 – Nam Lào 1971 là sự kiện lịch sử mang tầm chiến lược, tác động mạnh đến cục diện chiến trường ba nước Đông Dương, giáng đòn, đập tan chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh” của Mỹ, khẳng định sức mạnh các dân tộc và nghệ thuật quân sự, cùng hiệp đồng tác chiến Việt Nam – Lào – Campuchia.
Hội thảo khoa học “Chiến thắng Đường 9 - Nam Lào 1971: Giá trị lịch sử và hiện thực”
Sáng nay 19/3, Bộ Quốc phòng đã chủ trì, phối hợp với Tỉnh ủy Quảng Trị tổ chức Hội thảo khoa học cấp Bộ với chủ đề “Chiến thắng Đường 9 - Nam Lào 1971 - Giá trị lịch sử và hiện thực” tại tỉnh Quảng Trị.
Sự kiện được tổ chức nhân dịp kỷ niệm 50 năm Chiến thắng Đường 9 - Nam Lào (1971-2021),
Các đồng chí Ủy viên Trung ương Đảng chủ trì hội thảo gồm có: Thượng tướng Nguyễn Tân Cương (Thứ trưởng Bộ Quốc phòng, Trưởng ban Chỉ đạo hội thảo), đồng chí Lê Quang Tùng (Bí thư Tỉnh ủy Quảng Trị, đồng Trưởng ban Chỉ đạo hội thảo), Thượng tướng Trần Quang Phương (Phó chủ nhiệm Tổng cục Chính trị), Trung tướng Nguyễn Doãn Anh (Tư lệnh Quân khu 4). Đồng chủ trì hội thảo còn có Thiếu tướng Nguyễn Hoàng Nhiên (Viện trưởng Viện lịch sử Quân sự Việt Nam).
Cùng tham dự hội thảo khoa học này còn có các đồng chí: Thượng tướng Phạm Thanh Ngân (nguyên Ủy viên Bộ Chính trị, nguyên Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị), Trung tướng Phùng Sĩ Tấn (Phó tổng Tham mưu trưởng QĐND Việt Nam), cùng với các đại biểu là lãnh đạo các bộ, ban, ngành Trung ương, lãnh đạo, chỉ huy các Quân khu, Quân đoàn, Tổng cục, quân, binh chủng.
Hội thảo cũng thu hút sự tham gia của các học viện, trường sĩ quan trong Quân đội, từ các nhà khoa học trong và ngoài quân đội....
Đặc biệt, đóng góp tham luận cho hội thảo còn có các nhân chứng lịch sử trong chiến thắng Đường 9-Nam Lào hào hùng năm nào: Trung tướng Khuất Duy Tiến (nguyên Trung đoàn trưởng Trung đoàn 64 tham gia Chiến dịch Đường 9 - Nam Lào, nguyên Tư lệnh Quân đoàn 3, nguyên Cục trưởng cục Quân lực, nguyên Hiệu trưởng Trường Sĩ quan Lục quân 1), Trung tướng Phạm Xuân Thệ (nguyên Đại đội trưởng Đại đội 10, Tiểu đoàn 9, Trung đoàn 66, Sư đoàn 304 trong Chiến dịch Đường 9 - Nam Lào, nguyên Tư lệnh Quân đoàn 2, nguyên Tư lệnh Quân khu 1), đồng chí Nguyễn Minh Kỳ (nguyên Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Quảng Trị).
Hội thảo khoa học này được tổ chức với mục tiêu nhằm nghiên cứu, đánh giá, phân tích, làm rõ bối cảnh tình hình quốc tế, khu vực và trong nước cuối năm 1970 và đầu năm 1971, đồng thời phân tích âm mưu, thủ đoạn của Mỹ và chính quyền Việt Nam Cộng hòa trong việc thực hiện chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh”.
Hội thảo cũng nghiên cứu mục đích, biện pháp của Mỹ và chính quyền Việt Nam Cộng hòa trong kế hoạch hành quân “Lam Sơn 719" và nỗ lực ứng phó của những lực lượng này trước đòn phản công Đường 9 - Nam Lào của Quân đội Nhân dân Việt Nam.
Các tham luận, đóng góp khoa học của hội thảo cũng nhằm khẳng định tầm nhìn chiến lược, chủ trương đúng đắn do Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam (nay là Đảng Cộng sản Việt Nam) vạch ra trong bối cảnh Mỹ và chính quyền Việt Nam Cộng hòa thay đổi chiến lược từ “phi Mỹ hóa chiến tranh Việt Nam” sang chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh”...
Bí mật chiến thắng của ba nước Đông Dương trong chiến dịch Đường 9 – Nam Lào
Tham dự Hội thảo, các đại biểu, các nhà khoa học tham gia nghiên cứu đã lý giải vì sao Chiến thắng Đường 9 - Nam Lào 1971 là một trong những bước ngoặt quan trọng của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, từ đó góp phần làm thay đổi cục diện chiến tranh.
Chiến thắng Đường 9 - Nam Lào 1971 cũng đã trực tiếp đánh bại cuộc thử nghiệm khả năng chiến đấu của quân đội chính quyền Sài Gòn, đập tan âm mưu ngăn chặn tuyến chi viện chiến lược Trường Sơn - Đường Hồ Chí Minh của Mỹ và chính quyền Sài Gòn, từ đó làm thất bại về cơ bản chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh”, phá tan âm mưu kéo dài và mở rộng chiến tranh của Mỹ ở Đông Dương.
Chiến thắng Đường 9 Nam – Lào đã cho thấy rất rõ ràng sức mạnh của dân tộc Việt Nam, tình đoàn kết chiến đấu đặc biệt của quân dân hai nước Việt - Lào, góp phần quan trọng đưa đến thắng lợi cuối cùng của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.
Các đại biểu khẳng định, chiến thắng lịch sử này đã cho thấy những bài học và kinh nghiệm mang giá trị lý luận và thực tiễn sâu sắc về sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng, Quân ủy Trung ương và Bộ Tổng tư lệnh, cũng như bài học về việc phát huy sức mạnh của cả nước để làm nên chiến thắng. Chiến thắng là bước phát triển về khoa học nghệ thuật quân sự Việt Nam...
Những bài học từ Chiến thắng Đường 9 - Nam Lào 1971 có lợi ích rất lớn trong việc vận dụng vào hoạt động xây dựng Quân đội, củng cố nền quốc phòng toàn dân, thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân.
“Chiến thắng Đường 9 - Nam Lào năm 1971 đánh dấu bước trưởng thành của quân đội ta trong tác chiến hiệp đồng binh chủng quy mô lớn. Thắng lợi đó còn là minh chứng sống động cho tình đoàn kết chiến đấu đặc biệt giữa quân đội và nhân dân hai nước Việt Nam – Lào”, Tướng Cương khẳng định.
Thượng tướng Trần Quang Phương cho rằng, thắng lợi của Chiến dịch Đường 9 - Nam Lào 1971 có ý nghĩa to lớn, tác động mạnh đến cục diện chiến trường ba nước Đông Dương, giáng đòn mạnh vào chiến lược “Việt Nam hoá chiến tranh” của Mỹ, mở ra một giai đoạn mới – giai đoạn Quân đội ta thực hành các chiến dịch hiệp đồng binh chủng quy mô lớn, đánh tiêu diệt lớn trên chiến trường miền Nam.
“Chiến thắng này đồng thời, đánh dấu bước phát triển mới của nghệ thuật chiến dịch Việt Nam nói chung và nghệ thuật chiến dịch phản công nói riêng”, Thượng tướng Trần Quang Phương bày tỏ.
Nhân dịp này, hội thảo cũng tôn vinh những tấm gương chiến đấu anh dũng, hy sinh vì đất nước, củng cố tình đoàn kết hữu nghị đặc biệt Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam cho các thế hệ hôm nay và mai sau trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Khái quát về chiến thắng Đường 9 – Nam Lào 1971
Nói về chiến dịch Đường 9 Nam Lào 1971, TS. Trần Hữu Huy, Viện Lịch sử Quân sự Việt Nam nhận định rằng, sức mạnh của tình đoàn kết ba nước Đông Dương chính là yếu tố đặc biệt quan trọng đem đến chiến thắng trong trận này.
Theo đó, mùa Xuân năm 1971, các lực lượng Quân đội và nhân dân Việt Nam phối hợp chặt chẽ cùng nhân dân các bộ tộc và lực lượng vũ trang Cách mạng Lào tổ chức thực hiện thành công chiến dịch Đường 9 - Nam Lào giành thắng lợi vang dội.
Chiến thắng Đường 9 – Nam Lào đã góp phần quyết định làm xoay chuyển cục diện chiến tranh theo hướng ngày càng có lợi cho cách mạng.
“Đây cũng là thành quả chung của nhân dân ba nước Đông Dương cùng nhau đoàn kết chiến đấu chống kẻ thù xâm lược để giải phóng dân tộc”, TS. Trần Hữu Huy nhắc lại.
Chỉ trong thời gian ngắn, Quân dân Việt Nam và lực lượng cách mạng hai nước anh em Lào – Campuchia đã vượt qua mọi khó khăn, gian khổ, ác liệt, hy sinh, đánh bại hoàn toàn ba cuộc phản công quy mô lớn của kẻ địch trên ba địa bàn chiến lược.
Trước đó, năm 1969, thời điểm khi Richard Nixon, Tổng thống thứ 37 của Hợp chủng quốc Hoa Kỳ lên nắm quyền, chủ trương mở rộng chiến tranh xâm lược ra toàn bộ khu vực Đông Dương.
Đến đầu năm 1971, Mỹ chỉ đạo lực lượng đội quân tay sai, bao gồm quân đội Sài Gòn (thuộc Quân lực Việt Nam Cộng hòa), quân phản động Lon Non ở Campuchia, quân đội phái hữu Lào) phối hợp cùng thực hiện âm mưu.
Theo chuyên gia của Viện Lịch sử Việt Nam, trong “bộ ba” lực lượng này, quân đội Sài Gòn giữ vai trò nòng cốt xung kích mở đồng thời ba cuộc hành quân quy mô lớn đánh phá tuyến chi viện Trường Sơn của cách mạng ba nước Đông Dương.
Cụ thể đó là cuộc hành quân mật danh “Lam Sơn 719” đánh ra khu vực Đường 9 - Nam Lào, cuộc hành quân mật danh “Toàn thắng 1/71” đánh lên Đông Bắc Campuchia, cuộc hành quân mật danh “Quang Trung 4” đánh ra vùng ngã ba biên giới Việt Nam - Lào - Campuchia.
Ở thời điểm đó, trong ba cuộc hành quân này, chiến dịch “Lam Sơn 719” đánh ra khu vực Đường 9 - Nam Lào có quy mô lớn nhất. Theo TS. Trần Hữu Huy, khi đó lực lượng địch lúc cao nhất lên tới 55.000 binh lính.
Kẻ địch, đồng thời, cũng có tham vọng lớn nhất. Chúng âm mưu đánh phá, cắt đứt hoàn toàn từ gốc tuyến hành lang chi viện chiến lược Bắc - Nam của Việt Nam, làm suy yếu sức chiến đấu của cách mạng ba nước Đông Dương.
Đặc biệt, bè lũ tay sai cho Quân đội Mỹ còn muốn nhân cơ hội này thử nghiệm công thức cơ bản của chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh” gồm quân đội Sài Gòn cùng với cố vấn Mỹ, được hỏa lực và hậu cần Mỹ hỗ trợ tối đa.
Tham vọng tiếp theo của chúng chính là nhằm thử thách quyết tâm, khả năng quân sự của miền Bắc Việt Nam, hỗ trợ cho cuộc chiến tranh xâm lược ở Lào và Campuchia. Bên cạnh đó, chúng còn muốn gây sức ép trên bàn đàm phán tại Hội nghị Paris, buộc Việt Nam và các nước Đông Dương phải nhân nhượng, chấp nhận giải pháp, đề xuất mà phía Mỹ đưa ra.
Trước tình hình đó, ba nước Đông Dương Việt Nam – Lào – Campuchia đã đoàn kết lại. Nửa cuối năm 1970, Trung ương Đảng Lao động Việt Nam sau khi đánh giá đúng và nhận định được âm mưu, hành động của kẻ thù đã cùng trao đổi, liên hệ với Trung ương Đảng nhân dân Lào, Mặt trận thống nhất dân tộc Campuchia cùng nhau đi đến thống nhất về chủ trương lãnh đạo, chỉ đạo các đơn vị, các chiến trường liên quan lập phương án hiệp đồng sẵn sàng chiến đấu đối với chiến dịch này.
Trong giai đoạn từ tháng 9/1970 đến tháng 1/1971, quân dân ba nước Việt Nam, Lào, Campuchia đã nhanh chóng bắt đầu làm tốt công tác chuẩn bị chu đáo, toàn diện trên tất cả các mặt, các hướng, nhằm đưa ra những kế sách, phương án tối ưu đáp trả đòn tấn công của kẻ địch.
TS. Trần Hữu Huy nhấn mạnh, riêng tại hướng Đường 9 - Nam Lào, Bộ Chính trị, Quân ủy Trung ương Đảng Lao động Việt Nam hạ quyết tâm mở chiến dịch phản công hiệp đồng binh chủng, với mật danh Mặt trận 702, đặt dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Bộ Quốc phòng.
Khi đó, một vị tướng tài ba của Việt Nam là ông Lê Trọng Tấn, mang quân hàm Thiếu tướng, Phó Tổng Tham mưu trưởng được cử làm Tư lệnh chỉ huy. Thiếu tướng Lê Quang Đạo - Phó Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị được cử làm Chính ủy, kiêm Bí thư Đảng ủy Mặt trận.
Quân đội Việt Nam khi đó tham chiến với lực lượng gồm nhiều đơn vị chủ lực mạnh như 5 sư đoàn bộ binh (308, 304, 320, 324 và 2), một số đơn vị binh chủng cùng lực lượng tại chỗ của các mặt trận B4 (Quân khu Trị - Thiên), B5 (Mặt trận Đường 9 - bắc Quảng Trị), Đoàn 559 (Bộ đội Trường Sơn) với tổng quân số gần 60.000 quân sĩ.
Với tinh thần đoàn kết ba nước Đông Dương đã liên tục họp, trao đổi thường xuyên về kế hoạch tác chiến hành động. Theo TS. Trần Hữu Huy, tháng 1/1971, Ban Chấp hành Trung ương Đảng Nhân dân Lào đã họp và nhấn mạnh, nhiệm vụ trung tâm số một của toàn Đảng, toàn quân và toàn dân Lào trong lúc này là đánh thắng đế quốc Mỹ và tay sai, giành thắng lợi to lớn cách mạng Lào và hoàn thành nghĩa vụ quốc tế vẻ vang của mình.
Cùng với đó, Đảng Nhân dân Lào cũng chỉ đạo nhân dân các bộ tộc và lực lượng vũ trang cách mạng Nam Lào, nhất là tại tỉnh Savannakhet (nơi có Đường 9 chạy qua) phối hợp với bộ đội Việt Nam chiến đấu.
Tiếp nối quyết tâm của Lào, tin tưởng vào tinh thần đoàn kết cách mạng với Việt Nam, Mặt trận thống nhất dân tộc Campuchia ra tuyên bố liên quan. Theo đó khẳng định quyết tâm đập tan âm mưu của đế quốc Mỹ, dùng quân ngụy Sài Gòn làm trụ cột để tấn công cách mạng miền Nam và trên toàn bộ chiến trường Đông Dương.
“Việc tiêu diệt quân ngụy Sài Gòn trên chiến trường Campuchia cũng là thắng lợi chung của quân dân ba nước Campuchia - Việt Nam - Lào”, Mặt trận thống nhất dân tộc Campuchia khẳng định và ra lệnh cho lực lượng vũ trang cách mạng Campuchia phối hợp với Quân giải phóng miền Nam Việt Nam kiên quyết đánh bại mọi hành động quân sự của địch dù chúng có mạnh đến đâu.
Đến đầu tháng 2/1971, quân đội Sài Gòn được Hoa Kỳ yểm trợ bắt đầu mở đường tấn công đánh phá tuyến hành lang chi viện chiến lược Trường Sơn. Không hề lo sợ, Quân dân ba nước Việt Nam - Lào - Campuchia với thế trận đã chuẩn bị sẵn, chủ động đón đánh ngay từ đầu, giáng trả địch những đòn bất ngờ, “gây choáng” cho chính lực lượng kẻ địch.
Vào thời điểm này, trên hướng Đông Bắc Campuchia, Quân giải phóng miền Nam đã phối hợp với lực lượng quân kháng chiến và nhân dân Campuchia mở chiến dịch phản công, chặn đánh phe địch trên từng khu vực, đánh nhiều trận tập kích, phục kích, sau chuyển sang bao vây tiến công... đập tan cuộc hành quân “Toàn thắng 1/71” của quân Sài Gòn, đồng thời, loại khỏi vòng chiến đấu hơn 20.000 địch.
Tại ngã ba biên giới Việt Nam - Lào - Campuchia, lực lượng bộ đội chủ lực Mặt trận Tây Nguyên với chiến thuật đánh mưu trí, sáng tạo, mà theo các nhà nghiên cứu lịch sử, đã tận dụng tốt cách đánh bao vây, tiến công liên tục, phối hợp với quân dân địa phương đánh bại cuộc hành quân Quang Trung 4 của quân đoàn 2 Sài Gòn, loại khỏi vòng chiến đấu gần 10.000 địch.
“Thắng lợi của ta tại chiến trường đông bắc Campuchia và ngã ba biên giới đã trực tiếp góp phần đẩy quân địch lún sâu vào thế bị động, không còn khả năng chi viện cho chiến trường chính Đường 9 - Nam Lào, tạo thêm điều kiện thuận lợi cho quân dân Việt - Lào chiến đấu”, TS. Trần Hữu Huy nhấn mạnh.
Không thế lực nào có thể chia rẽ tình đoàn kết của ba nước Đông Dương
Như vậy, chiến dịch phản công Đường 9 - Nam Lào diễn ra từ ngày 30/1 và kết thúc thắng lợi vào ngày 23/3/1971. Quân đội ba nước Đông Dương Việt Nam – Lào – Campuchia đã loại khỏi vòng chiến đấu hơn 21.000 quân chủ lực địch, bắn rơi và phá hủy 556 máy bay, 528 xe tăng, xe bọc thép, 112 khẩu pháo, cối, thu giữ nhiều phương tiện chiến tranh và vũ khí, đập tan hoàn toàn cuộc hành quân “Lam Sơn 719” của quân đội Sài Gòn.
“Chiến thắng Đường 9 - Nam Lào 1971 có ý nghĩa chiến lược to lớn về quân sự, chính trị, ngoại giao, đồng thời làm nức lòng bè bạn thế giới”, chuyên gia khẳng định.
Nhắc lại về chiến thắng vang dội trong chiến dịch Đường 9 – Nam Lào 1971, chuyên gia của Viện Lịch sử Quân sự Việt Nam nêu rõ, đây là sự phối hợp hiệp đồng chiến đấu mang lại hiệu quả nhất, thành công nhất của nhân dân ba nước Đông Dương trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước đến thời điểm đó.
“Mỗi chiến công giành được đều là kết quả của sự phối hợp chung toàn chiến trường, và đều mang dấu ấn của sức mạnh đoàn kết nhân dân ba nước Đông Dương”, TS. Trần Hữu Huy nhấn mạnh.
Vị chuyên gia bổ sung thêm rằng, kỷ niệm 50 năm chiến thắng Đường 9 – Nam Lào 1971 là cơ hội để một lần nữa các bên nhận thức rõ hơn về sức mạnh đoàn kết liên minh chiến đấu của nhân dân ba nước Đông Dương.
Đồng thời đây cũng bài học quý báu để từ đó trân trọng giữ gìn và phát huy giá trị lịch sử trong thời kỳ mới, tiếp tục cùng nhau tăng cường quan hệ hữu nghị, hợp tác để xây dựng khu vực hòa bình, thịnh vượng theo mục tiêu, con đường mà nhân dân mỗi nước lựa chọn.
Dù thế giới hiện đại có nhiều biến động, tuy nhiên, chỉ khi trải qua đau thương mất mát tận cùng của những cuộc chiến người ta mới hiểu rõ giá trị của mỗi giây phút hòa bình, độc lập, tự do.
Tuy các cường quốc lớn như Mỹ - Trung Quốc đang cố gây ảnh hưởng đối với quan hệ hợp tác hữu nghị truyền thống giữa các nước Đông Dương, tuy nhiên các chuyên gia vẫn tin rằng, những gì phải trả bằng máu, bằng xương thịt, không dễ gì quên đi hay đánh mất.
Ngày càng nhiều nước e ngại và “né” sự trỗi dậy và khát vọng bành trướng của Trung Quốc, trong khi Mỹ thì dường như lại “quá cô đơn” dù có không ít đồng minh.
Sẽ khó có thế lực nào can thiệp và thay đổi được tình đoàn kết đặc biệt, chân thành, sẵn sàng hy sinh máu thịt của ba nước anh em Việt Nam – Lào – Campuchia.