Tham gia nghiên cứu còn có các nhà khoa học từ Thổ Nhĩ Kỳ, Iran và Ả Rập Xê Út.
Konstantin Katin, phó giáo sư tại NRNU MEPhI, cho biết rằng, thuốc Thiabendazole là loại hoá chất rất nguy hiểm đối với sức khoẻ con người. Khi vào cơ thể, nó có thể gây dị ứng, suy gan và thậm chí có thể gây rối loạn tăng trưởng của thai nhi ở phụ nữ mang thai.
"Các biểu hiện thường gặp của ngộ độc thực phẩm là buồn nôn, nôn, đau đầu, buồn ngủ, sốt. Tác dụng độc hại của chất bảo quản này đối với sinh vật sống đã được Cục quản lý Thực phẩm và Dược phẩm của Liên minh Châu Âu và các tổ chức tương tự khác công nhận là nguy hiểm", - chuyên gia Katin cho biết.
Cần lưu ý rằng, ở Liên minh Châu Âu và ở Nga, thiabendazole bị cấm sử dụng trong chế biến thực phẩm. Tuy nhiên, trong nông nghiệp, hoá chất này được đưa vào đất, nó được sử dụng để phòng trừ sâu bệnh cho cây trồng, để tẩy rửa và diệt nấm mốc, và các chất cặn bã có thể xâm nhập vào môi trường, sau đó đi vào trái cây và rau quả.
Công nghệ mới của các nhà khoa học Nga được phát triển trên cơ sở nào?
Công nghệ của các nhà khoa học Nga dựa trên lý thuyết phiếm hàm mật độ (Density Functional Theory), với sự trợ giúp của lý thuyết này họ đã tạo ra một dung dịch đặc biệt sau khi so sánh cấu trúc phân tử của thiabendazole với những hóa chất khác.
Konstantin Katin lưu ý rằng, một nhóm các nhà khoa học đã thực hiện rất nhiều thí nghiệm với những dung dịch khác nhau. Một phức hợp phân tử dựa trên betaine và axit pyroslimeic hóa ra lại phù hợp nhất, dung dịch này cho thấy rõ sự hiện diện của chất độc hại trong trái cây.
"Lượng thiabendazole tối đa cho phép trong trái cây và rau quả được quy định bởi các cơ quan nhà nước có liên quan. Các quốc gia có những định mức hơi khác nhau đối với các loại trái cây khác nhau, nhưng, nói chung, định mức tối đa là khoảng năm miligam mỗi lít. Và chúng tôi đã phát triển công nghệ để xác định nồng độ của Thiabendazole ít hơn 50 lần so với định mức tối đa cho phép", - nhà khoa học Katin giải thích thêm.
Ông cũng nhấn mạnh tính đơn giản và hiệu quả kinh tế của công nghệ mới bởi vì cả betaine và axit pyroslimeic luôn có sẵn. Theo ông Katin, các phương pháp điện di mao quản và quang phổ huỳnh quang đã được thử nghiệm trước đây đòi hỏi đầu tư lớn và thiết bị đặc biệt mà không phải phòng thí nghiệm nào cũng có.
Các tác giả của sự phát triển lên kế hoạch nhận bằng độc quyền sáng chế công nghệ này và giấy chứng nhận của Ủy ban Liên minh châu Âu. Họ cũng lưu ý rằng, một nhóm các nhà khoa học đang phát triển một công nghệ tương tự để tìm kiếm các chất độc hại trong mỹ phẩm.