Giới chuyên gia nhận định, nền kinh tế Việt Nam ‘thấm đòn’ Covid-19 cũng như xu thế suy thoái chung của kinh tế thế giới, cần nhanh chóng đưa ra các giải pháp thúc đẩy tăng trưởng, tránh bị lỡ nhịp.
Tuy nhiên, cần thừa nhận rằng, duy trì được mức tăng trưởng GDP dương đã là kỳ tích của nền kinh tế Việt Nam trong bối cảnh dịch bệnh Covid-19 phức tạp, kéo dài, đứt gãy nặng nề các chuỗi cung ứng. Trong đó, xuất nhập khẩu hàng hóa tiếp tục là điểm sáng khi giúp Việt Nam xuất siêu đến 4 tỷ USD năm 2021.
Nguyên nhân nào khiến GDP Việt Nam năm 2021 chỉ tăng khoảng 2,58%?
Ngày 29/12, Tổng cục Thống kê (GSO), Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã tổ chức họp báo công bố báo cáo tình hình kinh tế - xã hội quý IV và cả năm 2021.
Nhìn vào tốc độ tăng sản phẩm trong nước (GDP – mức tăng tổng sản phẩm quốc nội) của Việt Nam có thể thấy rõ dịch bệnh Covid-19 ‘giáng đòn’ nặng nề như thế nào đến nền kinh tế vốn có độ mở rất lớn và được kỳ vọng sớm trở thành ‘con hổ mới’ ở châu Á này.
Theo số liệu của Tổng cục Thống kê được bà Nguyễn Thị Hương, Tổng Cục trưởng GSO nêu tại buổi họp báo sáng nay, tổng sản phẩm quốc nội (GDP) của Việt Nam năm 2021 ước tính chỉ tăng 2,58% so với năm 2020.
Đây là mức tăng GDP thấp hơn so với con số 2,91% năm 2020, đồng thời cũng là mức tăng thấp nhất trong thập kỷ gần đây của nền kinh tế Việt Nam (vốn thuộc nhóm các nền kinh tế mới nổi có mức tăng trưởng nhanh hàng đầu thế giới).
Cơ quan thống kê quốc gia của Việt Nam lý giải, GDP cả nước năm 2021 chỉ ước tăng khoảng 2,58% do nhiều nguyên nhân, mà chủ yếu xuất phát từ ảnh hưởng nặng nề của dịch bệnh Covid-19 phức tạp, kéo dài – “tác động lên mọi lĩnh vực của nền kinh tế”.
Bà Nguyễn Thị Hương nhấn mạnh, đặc biệt trong quý ba, nhiều địa phương kinh tế trọng điểm phải thực hiện giãn cách xã hội kéo dài để phòng chống dịch bệnh.
“Tuy nhiên, đây là một thành công lớn của Việt Nam trong việc phòng chống dịch bệnh, duy trì sản xuất kinh doanh”, Tổng cục Thống kê đánh giá.
Báo cáo cụ thể của Tổng cục Thống kê cho thấy, GDP quý IV/2021 ước tính tăng 5,22% so với cùng kỳ năm trước.
“Mức này tuy cao hơn tốc độ tăng 4,61% của năm 2020 nhưng thấp hơn tốc độ tăng của quý IV các năm 2011-2019”, Tổng cục Thống kê thừa nhận.
Quý 4 vừa qua, khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng 3,16%, khu vực công nghiệp và xây dựng tăng 5,61%; khu vực dịch vụ tăng 5,42%.
Kim ngạch xuất khẩu Thủy sản Việt Nam năm 2021 đạt trên 1,54 tỷ USD
© Ảnh : Vũ Sinh-TTXVN
Về sử dụng GDP quý IV/2021, Tổng cục Thống kê cho hay, tiêu dùng cuối cùng tăng 3,86% so với cùng kỳ năm trước; tích lũy tài sản tăng 3,37%; xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ tăng 14,28%; nhập khẩu hàng hóa và dịch vụ tăng 11,36%.
“Ước tính GDP năm 2021 tăng 2,58% (quý I tăng 4,72%; quý II tăng 6,73%; quý III giảm 6,02%; quý IV tăng 5,22%) so với năm trước do dịch Covid-19 ảnh hưởng nghiêm trọng tới mọi lĩnh vực của nền kinh tế”, báo cáo của Tổng cục Thống kê nêu rõ.
Theo bà Nguyễn Thị Hương, trong mức tăng chung của toàn nền kinh tế Việt Nam, khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng 2,9%, đóng góp 13,97% vào tốc độ tăng tổng giá trị tăng thêm của toàn nền kinh tế, khu vực công nghiệp và xây dựng tăng 4,05%, đóng góp 63,80%; khu vực dịch vụ tăng 1,22%, đóng góp 22,23%.
Đối với khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản, Tổng cục Thống kê cho biết, năng suất của phần lớn cây trồng đạt khá so với năm trước, chăn nuôi tăng trưởng ổn định, kim ngạch xuất khẩu một số nông sản năm 2021 tăng cao góp phần duy trì nhịp tăng trưởng của cả khu vực.
Ngành nông nghiệp tăng 3,18%, đóng góp 0,29 điểm phần trăm vào tốc độ tăng tổng giá trị tăng thêm của toàn nền kinh tế Việt Nam, ngành lâm nghiệp tăng 3,88%, đóng góp 0,02 điểm phần trăm; ngành thủy sản tăng 1,73%, đóng góp 0,05 điểm phần trăm.
Riêng khu vực công nghiệp và xây dựng, ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tiếp tục là động lực tăng trưởng của toàn nền kinh tế với tốc độ tăng 6,37%, đóng góp 1,61 điểm phần trăm vào tốc độ tăng tổng giá trị tăng thêm của toàn nền kinh tế.
Khu công nghiệp Thăng Long, huyện Bình Xuyên, tỉnh Vĩnh Phúc. Năm 2021, tỉnh Vĩnh Phúc thu hút mới 8 dự án đầu tư hạ tầng
© Ảnh : Nguyễn Thảo - TTXVN
Báo cáo cho thấy, ngành sản xuất và phân phối điện tăng 5,24%, đóng góp 0,19 điểm phần trăm. Đáng chú ý, sản lượng khai thác dầu của Việt Nam giảm. Cụ thể, gành khai khoáng giảm 6,21%, làm giảm 0,23 điểm phần trăm do sản lượng dầu mỏ thô khai thác giảm 5,7% và khí đốt thiên nhiên dạng khí giảm 19,4%. Ngành xây dựng tăng 0,63%, đóng góp 0,05 điểm phần trăm.
Báo cáo cuối năm của Tổng cục Thống kê cũng thừa nhận, dịch Covid-19 diễn biến phức tạp từ cuối tháng 4/2021 đã ảnh hưởng nghiêm trọng đến hoạt động thương mại và dịch vụ.
“Tăng trưởng âm của một số ngành dịch vụ chiếm tỷ trọng lớn đã làm giảm mức tăng chung của khu vực dịch vụ và toàn bộ nền kinh tế”, bà Hương thông tin.
Cụ thể, ngành bán buôn, bán lẻ giảm 0,21% so với năm trước, làm giảm 0,02 điểm phần trăm trong tốc độ tăng tổng giá trị tăng thêm của toàn nền kinh tế; ngành vận tải kho bãi giảm 5,02%, làm giảm 0,3 điểm phần trăm, ngành dịch vụ lưu trú và ăn uống giảm mạnh 20,81%, làm giảm 0,51 điểm phần trăm.
Riêng ngành y tế và hoạt động trợ giúp xã hội đạt tốc độ tăng cao nhất trong khu vực dịch vụ với mức tăng 42,75%, đóng góp 0,55 điểm phần trăm, hoạt động tài chính, ngân hàng và bảo hiểm tăng 9,42%, đóng góp 0,52 điểm phần trăm, ngành thông tin và truyền thông tăng 5,97%, đóng góp 0,36 điểm phần trăm.
Về cơ cấu nền kinh tế năm 2021, Tổng cục Thống kê cho hay, dịch vụ chiếm 40,95%; thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm chiếm 8,83%. Về sử dụng GDP năm 2021, tiêu dùng cuối cùng tăng 2,09% so với năm 2020; tích lũy tài sản tăng 3,96%; xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ tăng 14,01%; nhập khẩu hàng hóa và dịch vụ tăng 16,16%.
Năng suất lao động của toàn nền kinh tế theo giá hiện hành năm 2021 ước tính đạt 171,3 triệu đồng/lao động (tương đương 7.398 USD/lao động, tăng 538 USD so với năm 2020).
Đáng chú ý, Tổng cục Thống kê nêu rõ, theo giá so sánh, năng suất lao động năm 2021 tăng 4,71% do trình độ của người lao động được cải thiện (tỷ lệ lao động qua đào tạo có bằng, chứng chỉ năm 2021 đạt 26,1%, cao hơn mức 25,3% của năm 2020).
Việt Nam xuất siêu 4 tỷ USD năm 2021, Mỹ - Trung vẫn là bạn hàng lớn nhất
Theo báo cáo của Tổng cục Thống kê, xuất nhập khẩu hàng hóa tháng 12 tiếp tục là điểm sáng của nền kinh tế Việt Nam.
Theo đó, trong tháng 12/2021, tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu hàng hóa ước tính đạt 66,5 tỷ USD, tăng 6,4% so với tháng trước và tăng 19,7% so với cùng kỳ năm trước.
“Tính chung năm 2021, tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu hàng hóa đạt 668,5 tỷ USD, tăng 22,6% so với năm trước, trong đó xuất khẩu tăng 19%; nhập khẩu tăng 26,5%”, GSO cho biết.
Trong tháng 12, kim ngạch xuất khẩu hàng hàng hóa đạt 34,5 tỷ USD, tăng hơn 8% so với tháng 11 và tăng gần 25% so với cùng kỳ năm trước. Cụ thể, kim ngạch xuất khẩu quý IV ước đạt 95,6 tỷ USD, tăng 19,5% so với cùng kỳ năm trước và tăng 16,5% so với quý III.
Tính chung năm 2021, kim ngạch xuất khẩu hàng hóa ước đạt 336,2 tỷ USD, tăng 19% so với năm trước. Trong đó, Mỹ là thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam với kim ngạch ước đạt 95,6 tỷ USD.
Năm qua, Việt Nam có 35 nhóm mặt hàng đạt kim ngạch xuất khẩu trên 1 tỷ USD, chiếm 94% tổng kim ngạch xuất khẩu, trong đó có 8 mặt hàng xuất khẩu trên 10 tỷ USD, chiếm gần 70%.
Ở chiều ngược lại, trong tháng 12, kim ngạch nhập khẩu hàng hóa đạt 32 tỷ USD, tăng 4,5% so với tháng trước và tăng gần 15% so với cùng kỳ năm 2020. Trong quý IV, kim ngạch nhập khẩu ước đạt 89 tỷ USD, tăng 16% so với cùng kỳ năm trước và tăng 6% so với quý III.
Tính chung năm 2021, kim ngạch nhập khẩu hàng hóa ước đạt 332,2 tỷ USD, tăng 26,5% so với năm trước. Trong đó, Trung Quốc là thị trường nhập khẩu lớn nhất của Việt Nam với kim ngạch ước đạt 110 tỷ USD.
Năm 2021 có 47 mặt hàng nhập khẩu đạt trị giá trên 1 tỷ USD, chiếm tỷ trọng 94% tổng kim ngạch nhập khẩu.
Theo Tổng cục Thống kê, năm 2021, Việt Nam xuất siêu sang EU ước đạt 23 tỷ USD, tăng 12,1% so với năm trước; nhập siêu từ Trung Quốc 54 tỷ USD, tăng 53%; nhập siêu từ Hàn Quốc 34,2 tỷ USD, tăng 22,9%; nhập siêu từ ASEAN 12 tỷ USD, tăng 63,1%; nhập siêu từ Nhật Bản 2,4 tỷ USD, tăng 127,9%.
Tính chung, cán cân thương mại tháng 12 xuất siêu 2,5 tỷ USD đưa cán cân thương mại cả năm 2021 xuất siêu 4 tỷ USD (năm trước Việt Nam xuất siêu 19,94 tỷ USD). Trong đó khu vực kinh tế trong nước nhập siêu 25,36 tỷ USD; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (kể cả dầu thô) xuất siêu 29,36 tỷ USD.
Có thể thấy rằng, đây đã là nỗ lực rất lớn của cả nền kinh tế. Năm 2021, dịch bệnh Covid-19 làm đứt gãy các chuỗi cung ứng toàn cầu và ảnh hưởng trực tiếp đến sản xuất và hoạt động xuất khẩu hàng hóa. Tuy nhiên, Việt Nam vẫn cố gắng tận dụng lợi thế từ các hiệp định thương mại để thúc đẩy xuất khẩu, mở cửa thị trường, tăng giao thương.
CPI, lạm phát thấp
Báo cáo của Tổng cục Thống kê cho thấy, các cân đối lớn của nền kinh tế Việt Nam đều được duy trì ổn định. Bình quân năm 2021, CPI tăng 1,84% so với năm trước, mức tăng thấp nhất kể từ năm 2016.
Cụ thể, giá xăng dầu, giá gas trong tháng giảm theo giá nhiên liệu thế giới, dịch bệnh Covid-19 diễn biến phức tạp trên phạm vi cả nước; học phí học kỳ I năm học 2021-2022 tiếp tục được miễn, giảm tại một số địa phương là các nguyên nhân chính làm chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng 12/2021 giảm 0,18% so với tháng trước và tăng 1,81% so với tháng 12/2020.
Lạm phát cơ bản tháng 12/2021 tăng 0,16% so với tháng trước, tăng 0,67% so với cùng kỳ năm trước. Lạm phát cơ bản bình quân năm 2021 tăng 0,81% so với bình quân năm 2020.
Tuy nhiên, Tổng cục Thống kê chỉ rõ, giá vàng trong nước của Việt Nam lại biến động trái chiều với giá vàng thế giới.
Theo đó, trong nước, chỉ số giá vàng tháng 12/2021 tăng 0,25% so với tháng trước; tăng 1% so với tháng 12/2020 và bình quân năm 2021 tăng 8,67% so với năm trước.
Chỉ số giá đô la Mỹ (USD) tháng 12/2021 tăng 0,84% so với tháng trước; giảm 0,58% so với tháng 12/2020 và bình quân năm 2021 giảm 0,97% so với năm trước.
Năm 2021, trong bối cảnh nền kinh tế gặp nhiều khó khăn do ảnh hưởng của dịch Covid-19, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã điều hành lãi suất phù hợp, tạo điều kiện để các tổ chức tín dụng tiếp tục giảm lãi suất cho vay, hỗ trợ nền kinh tế phục hồi. Hoạt động kinh doanh bảo hiểm ổn định; thị trường chứng khoán phát triển mạnh mẽ với mức vốn hóa thị trường cổ phiếu năm 2021 tăng 45,5% so với cuối năm trước.
Tính đến ngày 27/12/2021, giá trị giao dịch bình quân trên thị trường cổ phiếu đạt 26.526 tỷ đồng/phiên, tăng 257,5% so với bình quân năm trước; giá trị giao dịch bình quân trên thị trường trái phiếu đạt 11.421 tỷ đồng/phiên, tăng 9,9%; khối lượng giao dịch bình quân sản phẩm hợp đồng tương lai trên chỉ số VN30 trên thị trường chứng khoán phái sinh đạt 189.923 hợp đồng/phiên, tăng 21%.
FDI phục hồi, doanh nghiệp khôi phục sản xuất
Báo cáo của Tổng cục Thống kê đánh giá, dù vốn đầu tư thực hiện toàn xã hội theo giá hiện hành năm 2021 tăng 3,2% so với năm trước, tuy đây là mức tăng thấp nhất trong nhiều năm qua nhưng lại là “kết quả khả quan” trong bối cảnh dịch bệnh Covid-19 còn diễn biến phức tạp.
“Thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) phục hồi, vốn đăng ký mới và vốn đăng ký tăng thêm tăng trở lại cho thấy nhà đầu tư nước ngoài tiếp tục tin tưởng vào môi trường đầu tư Việt Nam”, Tổng cục Thống kê nhấn mạnh.
Theo GSO, tổng vốn đầu tư nước ngoài đăng ký vào Việt Nam, tính đến ngày 20/12/2021 bao gồm vốn đăng ký cấp mới, vốn đăng ký điều chỉnh và giá trị góp vốn, mua cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài đạt 31,15 tỷ USD, tăng 9,2% so với năm 2020.
Trong đó, vốn đăng ký cấp mới, có 1.738 dự án được cấp phép với số vốn đăng ký đạt 15,25 tỷ USD, giảm 31,1% về số dự án và tăng 4,1% về số vốn đăng ký so với năm trước.
Về đăng ký điều chỉnh vốn: có 985 lượt dự án đã cấp phép từ các năm trước đăng ký điều chỉnh vốn đầu tư tăng thêm 9,01 tỷ USD, tăng 40,5% so với năm trước. Trong khi đó, đăng ký góp vốn, mua cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài, có 3.797 lượt với tổng giá trị góp vốn 6,89 tỷ USD, giảm 7,7% so năm trước.
Trong đó, có 1.535 lượt góp vốn, mua cổ phần làm tăng vốn điều lệ của doanh nghiệp với giá trị góp vốn là 5,03 tỷ USD và 2.262 lượt nhà đầu tư nước ngoài mua lại cổ phần trong nước mà không làm tăng vốn điều lệ với giá trị 1,86 tỷ USD.
Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài thực hiện tại Việt Nam năm 2021, ước đạt 19,74 tỷ USD, giảm 1,2% so với năm trước.
Về đầu tư của Việt Nam ra nước ngoài, Bộ Kế hoạch và Đầu tư cho biết, trong năm 2021 có 61 dự án được cấp mới giấy chứng nhận đầu tư với tổng số vốn của phía Việt Nam là 409,1 triệu USD, tăng 28,6% so với năm trước; có 22 lượt dự án điều chỉnh vốn đầu tư với tổng vốn điều chỉnh giảm 776 triệu USD.
“Do tháng 12/2021, Tập đoàn Dầu khí Quốc gia Việt Nam đã điều chỉnh vốn giảm 1,2 tỷ USD của dự án thăm dò phát triển và khai thác dầu khí tại Nga. Nếu không tính dự án này, tổng vốn đầu tư của Việt Nam ra nước ngoài (vốn cấp mới và điều chỉnh) năm 2021 đạt 828,7 triệu USD”, Tổng cục Thống kê thông tin.
Tỷ lệ thất nghiệp, thiếu việc làm 2021 cao hơn năm trước
Báo cáo về một số tình hình xã hội cho thấy, dân số Việt Nam năm 2021 hiện đã là 98,51 triệu người, tăng 922,7 nghìn người.
Theo GSO, dân số Việt Nam có tăng, nhưng chất lượng dân số được cải thiện, mức sinh giảm và duy trì mức sinh thay thế từ năm 2005 trở lại đây. Bên cạnh đó, tỷ lệ tử vong vẫn duy trì ở mức thấp, tuổi thọ trung bình ngày càng tăng.
Báo cáo mới cập nhật cũng cho thấy, tình hình lao động, việc làm quý IV/2021 khởi sắc so với quý trước.
“Tuy nhiên, do ảnh hưởng của dịch Covid-19 nên tỷ lệ thất nghiệp và tỷ lệ thiếu việc làm tính chung năm 2021 cao hơn năm trước. Số người có việc làm, thu nhập của người làm công hưởng lương thấp hơn năm trước”, Tổng cục Thống kê nêu rõ.
Tính chung năm 2021, tỷ lệ thất nghiệp của lao động trong độ tuổi là 3,22% (quý I là 2,42%; quý II là 2,62%; quý III là 3,98%; quý IV là 3,56%), trong đó tỷ lệ thất nghiệp khu vực thành thị là 4,42%; khu vực nông thôn là 2,48%.
Tỷ lệ thất nghiệp của thanh niên (từ 15-24 tuổi) năm 2021 ước tính là 8,48%, trong đó khu vực thành thị là 11,91%; khu vực nông thôn là 6,76%.
Tỷ lệ thiếu việc làm của lao động trong độ tuổi ước tính là 3,10% (quý I/2021 là 2,20%; quý II là 2,60%; quý III là 4,46%; quý IV là 3,37%), trong đó tỷ lệ thiếu việc làm khu vực thành thị là 3,33%; tỷ lệ thiếu việc làm khu vực nông thôn là 2,96%.
Tổng cục trưởng Tổng cục Thống kê Nguyễn Thị Hương phát biểu
© Ảnh : Tuấn Anh - TTXVN
Đánh giá chung, khái quát tổng kết lại năm 2021, Tổng cục Thống kê cho rằng, trong bối cảnh dịch Covid-19 tiếp tục diễn biến phức tạp, kinh tế – xã hội Việt Nam vẫn duy trì tăng trưởng và đạt được kết quả tích cực trên các lĩnh vực.
“Kết quả này đạt được là do sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị, sự chỉ đạo, điều hành kịp thời, quyết liệt, sát sao của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ cùng với sự nỗ lực thực hiện của các cấp, các ngành, địa phương, cộng đồng doanh nghiệp và nhân dân cả nước”, Tổng cục trưởng Nguyễn Thị Hương khẳng định.