Ngày 19/1 đã trở thành “ngày Hoàng Sa” để tưởng nhớ sự kiện Hoàng Sa (tức hải chiến Hoàng Sa 1974), đồng thời, cũng là dịp để người dân cả nước hướng về Hoàng Sa, vùng lãnh thổ máu thịt của Tổ quốc đang bị Trung Quốc cưỡng chiếm.
Hải chiến Hoàng Sa 1974: Trung Quốc dùng vũ lực chiếm Hoàng Sa
Cách đây 48 năm, ngày 19/1/1974, chính quyền Trung Quốc đã đưa quân tấn công lực lượng đồn trú của Việt Nam Cộng hòa (VNCH) trên quần đảo Hoàng Sa. Đây là nỗi đau, mất mát không gì bù đắp được của mỗi người dân Việt Nam luôn đau đáu một lòng hướng về hai quần đảo có vị trí chiến lược đặc biệt của Tổ quốc – Hoàng Sa, Trường Sa mãi mãi là của Việt Nam.
Trung Quốc tuyên truyền trong nước rằng cuộc tấn công xâm lược vào khu vực quần đảo Hoàng Sa năm 1979 chỉ mang tính “tự vệ”. Tuy nhiên, giới quan sát quốc tế chỉ rõ, Bắc Kinh bịa đặt trắng trợn về bản chất cuộc hải chiến.
Theo chuyên gia nghiên cứu về Biển Đông, Thạc sĩ Hoàng Việt, Hoàng Sa chính là sự kiện mở đầu cho chuỗi những hành động quân sự thể hiện tham vọng của Trung Quốc đối với các đảo, bãi đá ngoài khơi Biển Đông.
Tiếp sau sự kiện Hoàng Sa 1974 (hay còn gọi là hải chiến Hoàng Sa) là sự kiện Trường Sa 1988 (hải chiến Trường Sa 1988), cũng như sự kiện bãi Vành Khăn 1995.
Tháng 1/1947, Trung Quốc, lúc đó là chính quyền của quân Tưởng Giới Thạch đã đổ bộ lên đảo Phú Lâm (Woody) của quần đảo Hoàng Sa. Phía Pháp lập tức phản đối việc chiếm hữu trái phép này của Trung Quốc và cử một phân đội ra quần đảo Hoàng Sa, lập đồn binh và xây trạm khí tượng.
Năm 1947, Pháp đề nghị đưa vấn đề tranh chấp ra Trọng tài quốc tế nhưng Trung Hoa từ chối. Đến năm 1950, sau khi chính phủ của Tưởng Giới Thạch phải chạy ra đảo Đài Loan, quân của Tưởng Giới Thạch rút khỏi đảo Phú Lâm (quần đảo Trường Sa). Tháng 10/1949, Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa ra đời. Tháng 5/1950, quân đội Quốc dân Đảng phải rời khỏi các đảo Phú Lâm và Ba Bình (quần đảo Trường Sa).
Theo thạc sĩ Hoàng Việt, lúc này, các trại đồn trú của Pháp vẫn được tiếp tục duy trì ở Hoàng Sa. Đến ngày 14/10/1950, Chính phủ Pháp chính thức chuyển giao cho Chính phủ Bảo Đại quyền quản lý quần đảo này.
“Thủ hiến Trung phần Việt Nam lúc bấy giờ là Phan Văn Giáo đã chủ tọa việc chuyển giao quyền hành quản lý quần đảo Hoàng Sa. Đến năm 1954, 2 quần đảo này được đặt dưới sự quản lý của chính quyền Việt Nam Cộng hòa”, ông Việt nhắc lại.
Tháng 4/1956, quân đội viễn chinh Pháp rút khỏi Đông Dương, đội tuần tra của Pháp trên đảo Hoàng Sa được thay thế bởi đội tuần tra của chính phủ Việt Nam Cộng hòa.
Nhưng khi đó, chính quyền Trung Quốc Đại lục đã bí mật cho quân đổ bộ chiếm phần phía Đông của quần đảo Hoàng Sa (cụm An Vĩnh). Trong khi phía Tây, nhóm Lưỡi Liềm, còn gọi là Nguyệt Thiềm vẫn do quân đội Việt Nam đóng trên đảo Hoàng Sa nắm giữ.
Tới ngày 1/6/1956, ngoại trưởng Việt Nam Cộng hòa Vũ Văn Mẫu xác nhận lại chủ quyền của Việt Nam trên cả hai quần đảo. Ngày 22/8/1956, một đơn vị hải quân của Việt Nam Cộng hòa đã cắm cờ trên quần đảo Trường Sa và dựng bia đá.
Cho tới năm 1956 Pháp chuyển giao lãnh thổ miền Nam Việt Nam cho Chính quyền Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) và chính quyền này đã cho quân ra tiếp quản, tổ chức hai quần đảo về mặt hành chính (lập ở mỗi quần đảo một xã thuộc một huyện ở đất liền), xây các bia chủ quyền, duy trì các trạm khí tượng, khẳng định chủ quyền của Việt Nam ở đây.
Từ nửa sau thế kỷ trước, tình hình hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa trở nên phức tạp hơn. Lợi dụng tình hình rối ren khi Pháp rút khỏi Đông Dương theo Hiệp định Geneve năm 1954, Trung Quốc đã bí mật chiếm đóng trái phép nhóm đảo phía Đông của quần đảo Hoàng Sa vào năm 1956. Chính quyền Việt Nam Cộng hòa đã kịch liệt phản đối các yêu sách của Bắc Kinh.
Ngày 19/1/1974, Trung Quốc đã dùng vũ lực chiếm các đảo do quân đội Việt Nam Cộng hòa đóng, 64 sĩ quan và binh sĩ Sài Gòn hy sinh, Trung Quốc chiếm toàn bộ quần đảo Hoàng Sa.
Thế giới lên án Trung Quốc
Chuyên gia và các nhà nghiên cứu trên thế giới cho rằng, dù hiện nay, Trung Quốc đang kiểm soát quần đảo Hoàng Sa, tuy nhiên, theo luật pháp quốc tế, việc dùng vũ lực để chiếm đóng, chinh phục một vùng lãnh thổ là không thể chấp nhận được.
Suốt thời gian qua, Trung Quốc thường xuyên bị lên án vì hành động cưỡng chiếm này.
Nghị quyết của Đại Hội đồng Liên Hợp Quốc ngày 24/10/1970 ghi rõ, lãnh thổ của một quốc gia không thể là đối tượng của một sự chiếm đóng quân sự, kết quả của việc sử dụng vũ lực trái với các điều khoản của Hiến chương Liên hợp quốc.
Lãnh thổ của một quốc gia không thể là một đối tượng thụ đắc bởi một quốc gia khác do đe doạ sử dụng vũ lực hoặc sử dụng vũ lưc. Bất kỳ sự thụ đắc lãnh thổ nào bằng sự đe dọa sử dụng vũ lực hoặc sử dụng vũ lực đều là bất hợp pháp.
Do đó, cộng đồng quốc tế nhấn mạnh rằng, các hành động dùng vũ lực trái ngược với luật quốc tế của Trung Quốc không thể mang lại danh nghĩa pháp lý cho chính quyền Bắc Kinh đối với quần đảo Hoàng Sa.
Cho đến nay, Trung Quốc đã bồi lấp và quân sự hóa quần đảo Hoàng Sa cùng với bảy cấu trúc địa lý mà họ cũng chiếm giữ bằng vũ lực tại Trường Sa. Họ muốn sử dụng các cấu trúc này thành căn cứ để có thể phục vụ cho mưu đồ độc chiếm được biển Đông.
“Tuy nhiên, các hành động đi ngược với luật pháp quốc tế như vậy sẽ không thể thành công. Hoàng Sa vẫn mãi là một phần lãnh thổ của Việt Nam”, chuyên gia Hoàng Việt khẳng định.
Tư liệu lịch sử khẳng định Hoàng Sa, Trường Sa thuộc chủ quyền Việt Nam
Như đã biết, hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa mà Việt Nam tuyên bố chủ quyền gồm nhiều đảo đá san hô nhỏ và rất nhỏ ở giữa biển Đông. Những năm qua, hai quần đảo này đang là tâm điểm tranh chấp giữa Trung Quốc, Việt Nam cùng một số nước ven biển Đông.
“Đối với việc giải quyết tranh chấp chủ quyền lãnh thổ, pháp luật quốc tế, cho tới nay đã hình thành nguyên tắc xác lập chủ quyền, đó là chiếm hữu thông qua sự thực hiện các hoạt động của Nhà nước một cách thật sự, liên tục và với biện pháp hòa bình”, thạc sĩ Hoàng Việt nhấn mạnh.
Nguyên tắc này đã được các quốc gia và các cơ quan tài phán quốc tế áp dụng để giải quyết nhiều vụ tranh chấp về chủ quyền lãnh thổ trên thế giới, mà điển hình như vụ đảo Palmas, đảo Pedra Branca thời gian qua.
Trong khi đó, Chính phủ Việt Nam có đầy đủ bằng chứng lịch sử và cơ sở pháp lý để khẳng định chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo từ lâu, ít nhất là từ thế kỷ thứ 17.
Theo đó, Nhà nước Việt Nam là quốc gia đầu tiên, với tư cách Nhà nước, đã chiếm hữu và thực thi chủ quyền đối với hai quần đảo một cách hòa bình, thực sự và liên tục qua tất cả các thời kỳ kể từ khi hai quần đảo này chưa thuộc về bất kỳ quốc gia nào.
“Việc chiếm hữu và thực thi chủ quyền đối với hai quần đảo này là hoàn toàn phù hợp, đáp ứng được các tiêu chuẩn của luật pháp quốc tế về thụ đắc lãnh thổ”, chuyên gia khẳng định.
Bên cạnh đó, tư liệu lịch sử về chủ quyền của Việt Nam đối với Hoàng Sa, Trường Sa cũng hết sức đa dạng. Điển hình nhất là các tài liệu chính sử của các nhà nước quân chủ Việt Nam lúc bấy giờ. Trong đó, Đại Nam thực lục là bộ sử lớn nhất của Quốc sử quán triều Nguyễn ghi chép nhiều tư liệu nhất về quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa cũng như các hoạt động của Triều Nguyễn trong việc quản lý, khẳng định, thực thi chủ quyền trên hai quần đảo này.
Bên cạnh đó, các hoạt động quản lý và thực thi chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa còn được phản ánh đậm nét và cụ thể trong các Châu bản triều Nguyễn.
“Đây là các văn bản hành chính chính thức của triều đình nhà Nguyễn, có châu phê của Hoàng đế và ấn tín các cơ quan nhà nước, là những văn bản mang tính pháp lý cao nhất của một quốc gia theo chế độ quân chủ tập quyền”, ông Việt nêu rõ.
Do đó, theo các chuyên gia, chúng có giá trị lịch sử và giá trị pháp lý mạnh, sức thuyết phục cao về chủ quyền của Việt Nam trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
Thông qua các văn bản này có thể thấy, nhà nước quân chủ Việt Nam đã xác lập và triển khai nhiều hoạt động thực thi chủ quyền đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
Cụ thể, hàng năm cử các đội Hoàng Sa kiêm quản đội Bắc Hải ra cắm mốc, đo đạc vẽ bản đồ, dựng bia, lập miếu, khai thác các tài nguyên sản vật trên biển, thực hiện công tác cứu hộ, cứu nạn đối với thuyền bè Việt Nam cũng như tàu thuyền nước ngoài gặp nạn trên vùng biển Việt Nam, ban hành và thực hiện các chính sách ưu đãi đối với những người được triều đình cử đi thực thi công vụ trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
Đáng chú ý, nhiều bản đồ của phương Tây từ thế kỷ 16 đến thế kỷ 19 đều thể hiện bằng hình vẽ hoặc bằng ghi chú vị trí của hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa ở trong vùng biển Việt Nam, ghi nhận hai quần đảo này là một phần lãnh thổ của Việt Nam. Chuyên gia Hoàng Việt trong bài viết trên báo NLĐ đã dẫn chứng nhiều ví dụ như trên bản đồ An Nam đại quốc họa đồ (do giám mục người Pháp Jean Louis Taberd vẽ và xuất bản, đính kèm trong cuốn từ điển Latin An Nam năm 1838) có ghi dòng chữ Latin: Paracel seu Cát Vàng, nghĩa là "Paracel hoặc là Cát Vàng". Trong các bản đồ và các Atlas liên quan chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, đặc biệt quan trọng là bộ Atlas Universel de gesographie physique, politique, statistque et mineralogique (Atlas địa lý tự nhiên, chính trị, thống kê và khoáng sản thế giới, gọi tắt là Atlas Thế giới hay Atlas Toàn cầu) do Philippe Vandermaelen (1795 - 1869) - nhà địa lý học người Bỉ, người sáng lập Viện Địa lý Hoàng gia Bỉ - biên soạn, xuất bản tại Bruxelles (Bỉ) vào năm 1827.
“Trong đó, tờ bản đồ Partie de la Cochinchine ở tập 2 khẳng định Paracels (quần đảo Hoàng Sa) thuộc Việt Nam”, ông Việt cho biết.
Sau khi đặt ách cai trị khu vực Đông Dương từ thế kỷ 19, Pháp đã thay chính quyền nhà Nguyễn tiếp tục quản lý hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
Bên cạnh Đại Nam thực lục, còn nhiều tư liệu chính sử khác thể hiện Hoàng Sa, Trường Sa thuộc chủ quyền của Việt Nam. Ông Việt dẫn ra các tư liệu như Đại Nam thực lục tiền biên (quyển 10, tờ 24) do Quốc sử quán triều Nguyễn biên soạn đời Minh Mạng (1820 - 1841) chép về hoạt động của đội Hoàng Sa và đội Bắc Hải thời chúa Nguyễn.
Trong khi đó, Đại Nam thực lục chính biên (đệ nhất kỷ, quyển 22, tờ 2) chép việc vua Gia Long cho tái lập đội Hoàng Sa, tiếp tục các hoạt động khai thác và thực thi chủ quyền ở quần đảo Hoàng Sa vào năm 1803, Đại Nam thực lục chính biên (đệ nhất kỷ, quyển 50, tờ 6) chép việc vua Gia Long sai người ra khảo sát và đo đạc thủy trình ở Hoàng Sa vào năm 1815.
Tiếp đó, Đại Nam thực lục chính biên (đệ nhất kỷ, quyển 52, tờ 15) chép việc vua Gia Long tiếp tục sai người đi khảo sát Hoàng Sa vào năm 1816; Đại Nam thực lục chính biên (đệ nhị kỷ, quyển 154, tờ 4) chép việc vua Minh Mạng sai người chở vật liệu ra lập miếu thờ thần Hoàng Sa và dựng bia ở Hoàng Sa vào năm 1835.
Đồng thời, Đại Nam thực lục chính biên (đệ nhị kỷ, quyển 165, tờ 24-25) chép việc vua Minh Mạng sai Thủy quân suất đội Phạm Hữu Nhật đem binh thuyền đi khảo sát và cắm mốc chủ quyền ở Hoàng Sa vào năm 1836; Đại Nam thực lục chính biên (đệ tam kỷ, quyển 49, tờ 5) chép việc phạt tội lưu đày một viên quan của triều đình đã có những hành động càn quấy ở Quảng Ngãi trong thời gian được phái công vụ ở Hoàng Sa vào năm 1845.
Cùng với đó, Sách Đại Nam nhất thống chí có hai tư liệu, trong đó một tư liệu miêu tả về hình thế quần đảo Hoàng Sa, một tư liệu viết về đội Hoàng Sa và đội Bắc Hải. Sách Quốc triều chính biên toát yếu có 3 tư liệu, trong đó có một tư liệu chép việc vua Minh Mạng cho lập miếu và dựng bia trên đảo Hoàng Sa vào năm 1835 - một tư liệu chép việc vua Minh Mạng sai Thủy quân suất đội Phạm Hữu Nhật đem người ra đo đạc hình thế các đảo ở Hoàng Sa vào năm 1836; một tư liệu chép việc vua Minh Mạng sai người cứu giúp thuyền buôn của nước Anh Cát Lợi bị nạn khi đi qua vùng biển Hoàng Sa vào năm 1836.
Đưa Hoàng Sa lên vị thế chiến lược mới
Năm nay 2022 cũng là kỷ niệm 40 năm Đà Nẵng thành lập huyện đảo Hoàng Sa (từ 1982) và 25 năm quản lý huyện đảo Hoàng Sa (1997).
Trao đổi với báo chí ngày 19/1, Chủ tịch UBND huyện Hoàng Sa Võ Ngọc Đồng đã có những chia sẻ đáng chú ý, tái khẳng định chủ quyền lịch sử của Việt Nam đối với quần đảo này.
Ông Đồng nhắc đến việc ngày 11/12/1982, Hội đồng Bộ trưởng (tức Chính phủ hiện nay) ban hành quyết định số 194-HĐBT về việc thành lập huyện Hoàng Sa thuộc tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng. Đây cũng là văn bản cấp Chính phủ đầu tiên.
“Thành lập huyện Hoàng Sa thuộc tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng bao gồm toàn bộ quần đảo Hoàng Sa trước đây thuộc huyện Hòa Vang, tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng”, Quyết định của Hội đồng Bộ trưởng nêu rõ.
Theo ông Võ Ngọc Đồng, đây là lần đầu tiên bộ máy quản lý nhà nước đối với quần đảo Hoàng Sa được nâng từ cấp xã lên cấp huyện, đồng thời là hành động của Nhà nước Việt Nam khẳng định tính pháp lý về quyền quản lý lãnh thổ một cách liên tục của Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa.
“Đây là văn bản Nhà nước đầu tiên xác lập Hoàng Sa là một đơn vị cấp huyện. Theo tôi, ngoài ý nghĩa to lớn là quyết định Nhà nước xác lập quyền quản lý, quyết định này còn xác định được vị thế chiến lược mới của quần đảo Hoàng Sa cùng quần đảo Trường Sa trong bản đồ nước ta”, ông Đồng nêu rõ.
Vị lãnh đạo đánh giá, từ đây mở ra bức tranh tổng thể của Biển Đông, trong đó quần đảo Hoàng Sa có vị trí trọng yếu mới đối với vùng biển Việt Nam.
Chủ tịch huyện đảo Hoàng Sa nhấn mạnh, việc giao trực tiếp cho tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng hồi đó quản lý vừa xác lập quyền, giao trách nhiệm quản lý cho chính quyền địa phương, vừa thể hiện sự quản lý liên tục của Việt Nam với vùng biển này, vừa gắn với quá trình lịch sử lâu đời của ngư dân khu vực miền Trung vốn ngàn đời nay đã sinh tồn trên ngư trường Hoàng Sa.
“Thời điểm Hội đồng Bộ trưởng có quyết định thành lập huyện Hoàng Sa, chúng ta xác định việc đề cao quyền quản lý hành chính đối với vùng lãnh thổ thiêng liêng đặc biệt này, là hành động của Nhà nước khẳng định một quốc gia có chủ quyền đối với quần đảo Hoàng Sa theo Hiến chương Liên Hiệp Quốc và Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật biển (UNCLOS) 1982”, ông Đồng nói.
Đến năm 1997, huyện Hoàng Sa được giao cho TP Đà Nẵng quản lý, mục tiêu chủ yếu là thực thi quản lý hành chính đối với lãnh thổ quần đảo Hoàng Sa. UBND huyện Hoàng Sa có nhiều hoạt động tuyên truyền, nâng cao nhận thức của nhân dân đối với quần đảo máu thịt của Tổ quốc, nhất là trong giới trẻ, học sinh sinh viên.
Chính quyền Đà Nẵng cũng có nhiều hoạt động như sinh hoạt học thuật, sưu tầm, xây dựng bộ hồ sơ tư liệu và tổ chức các hội thảo để cung cấp những bằng chứng về pháp lý khẳng định chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo này.
Ông Võ Ngọc Đồng đánh giá, trong 25 năm qua, TP Đà Nẵng đã có những bước đi vững chắc trong quá trình thực thi quản lý hành chính. Càng sưu tầm bài bản, hình thành kho tư liệu về Hoàng Sa càng dày, càng đầy đặn hơn sẽ càng có thêm công cụ đấu tranh bảo vệ chủ quyền.
“Chúng tôi ý thức việc càng hoàn thiện sưu tầm và hệ thống đầy đủ bằng chứng chủ quyền của nước ta với Hoàng Sa thì công cuộc bảo vệ chủ quyền càng có lợi”, ông Đồng nói.
Hoàng Sa cũng coi trọng “nhân chứng sống” trong cuộc đấu tranh bảo vệ chủ quyền đất nước. Theo ông Đồng, chính quyền đã ập danh sách những nhân chứng từng sống ở Hoàng Sa, hình thành được kỷ yếu.
“Ngoài việc vận động họ hiến hiện vật, chúng tôi hiểu những tác động của thời gian nên đã tổ chức phối hợp với các đài truyền hình ghi hình tư liệu, những lời kể lại về Hoàng Sa để có bằng chứng người Việt cai quản Hoàng Sa như thế nào để giới thiệu đến nhân dân thế giới”, ông Đồng khẳng định với Tuổi Trẻ.
“Tuổi trẻ, máu và nước mắt”
Cũng trong ngày 19/1, đoàn đại biểu UBND huyện Hoàng Sa đã đến thăm viếng các nhân chứng sống, những người từng sống và làm việc ở Hoàng Sa, động viên, tặng quà, thăm hỏi những người còn sống và viếng linh hồn những người đã khuất.
Theo ông Võ Ngọc Đồng, ngày 19/1 hàng năm, cả nước hướng về Hoàng Sa, như cuộc hành hương về lòng yêu nước và nỗi nhớ về vùng lãnh thổ đã bị Trung Quốc chiếm đóng. Người từng hai lần ra Hoàng Sa chia sẻ trên PLO rằng, cứ mỗi năm đến ngày 19/1 là ông lại đau đáu không yên. Bởi đó là một phần lãnh thổ không thể tách rời của Tổ quốc, là máu xương, sự hy sinh của bao thế hệ cha anh.
“Hoàng Sa là tuổi trẻ, là mồ hôi, nước mắt và máu của chúng tôi. Tôi chỉ mong thế hệ trẻ hôm nay không bao giờ được quên Hoàng Sa, không bao giờ được quên một phần máu thịt của Tổ quốc vẫn đang bị Trung Quốc chiếm đóng trái phép”, ông Lê Lan nói.
Phó Chủ tịch UBND huyện Hoàng Sa Lê Phú Nguyện cho biết, các nhân chứng luôn đau đáu rằng, bằng cách nào đó hãy mang tất cả những công sức, kỷ niệm, tư liệu của họ về Hoàng Sa đến với tất cả người dân Việt Nam và thế giới được biết.
“Từ đó nhắc nhở thế hệ sau không được quên Hoàng Sa, phải luôn khẳng định chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo và tiếp tục đấu tranh để một ngày nào đó đưa Hoàng Sa về với Tổ quốc”, ông Lê Phú Nguyện nhấn mạnh.