Đi tìm lịch sử về nạn đói 1945 ở Việt Nam, có những chuyện kinh dị, khó tin về nạn đói năm Ất Dậu 1945 được chính những người Việt đương thời kể lại như ở Thái Bình, rất nhiều người chết, người sống tranh nhau từng miếng ăn, thậm chí phải ăn cả thịt người để tồn tại.
Nạn đói Ất Dậu 1945 ở Việt Nam khủng khiếp như thế nào?
Trong ký ức của những người Việt đương thời, “nạn đói lịch sử năm Ất Dậu 1945” vẫn là ký ức kinh hoàng, không thể nào quên.
Công trình nghiên cứu về nạn đói năm 1945 của GS Văn Tạo, nguyên Viện trưởng Viện Sử học Việt Nam và GS Furuta Motoo (người Nhật Bản) mang tên “Nạn đói năm 1945 ở Việt Nam” chỉ rõ nhiều sự thật lịch sử về nạn đói năm Ất Dậu và tiếp tục được những người yêu sử Việt tìm đọc. Ở công trình nghiên cứu lịch sử đồ sộ và tâm huyết này, GS. Văn Tạo và GS. Motoo đã dẫn lại quan điểm so sánh nạn đói năm 1945 ở Việt Nam với tổn thất của các cuộc chiến tranh Pháp - Đức được Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ:
“Nạn đói nguy hiểm hơn nạn chiến tranh. Thí dụ trong 6 năm chiến tranh, nước Pháp chết một triệu người, nước Đức chết chừng 3 triệu. Thế mà nạn đói nửa năm ở Bắc Bộ, ta đã chết hơn 2 triệu người”.
Cuốn sách Nạn đói năm 1945 ở Việt Nam - Những chứng tích lịch sử của Viện sử học, GS Văn Tạo và GS Furata Motoo
© Ảnh : Omega+
Trong cuốn Lịch sử Đảng bộ tỉnh Thái Bình xuất bản năm 1986 nêu rõ “năm 1945, cả tỉnh có 280.000 người chết đói, chiếm 25% tổng dân số. Nhiều địa phương chết tới trên 50% dân số, như: xã Tây Lương: 67%; Sơn Thọ, Thụy Anh (Thái Thụy): 79%; xã Thanh Nê (Kiến Xương) có 4.164 người thì chết gần 2.000 người; xã Tây Ninh (Tiền Hải) có 171 gia đình chết không còn một ai”.
Nhiều làng xã chết 50-80% dân số, nhiều gia đình, dòng họ chết không còn ai.. Làng Sơn Thọ, xã Thụy Anh (Thái Thụy, Thái Bình) có hơn 1.000 người thì chết đói mất 956 người. Chỉ trong 5 tháng, số người chết đói toàn tỉnh lên đến 280.000 người, chiếm 25% dân số Thái Bình khi đó. Số liệu thống kê cũng cho thấy, riêng tỉnh Thái Bình, nơi nạn đói diễn ra trầm trọng nhất, đã được Ban lịch sử tỉnh điều tra, con số tương đối sát thực tế là cả tỉnh chết đói mất 280.000 người.
“Chỉ tính số người chết đói ở Thái Bình cùng với Nam Định hơn 210.000 người, Ninh Bình 38.000, Hà Nam 50.000 thì số người chết đói đã lên đến hơn 580.000. Như vậy, con số hai triệu người Việt Nam chết đói trong 32 tỉnh cũ tính từ Quảng Trị trở ra và hai thành phố lớn Hà Nội, Hải Phòng là gần với sự thực”, theo GS. Văn Tạo – Nạn đói ở Việt Nam năm 1945.
Lịch sử đảng bộ Hà Sơn Bình cũ cũng nêu “trong nạn đói năm 1945, khoảng 8 vạn người (gần 10% dân số trong tỉnh) chết đói, nhiều nơi xóm làng xơ xác tiêu điều, nhất là ở những nơi nghề thủ công bị đình đốn. Làng La Cả (Hoài Đức) số người chết đói hơn 2.000/4.800 dân, có 147 gia đình chết không còn một ai. Làng La Khê (Hoài Đức) có 2.100 người thì 1.200 người chết đói, bằng 57% số dân”.
Tháng 5/1945, tức 7 tháng sau khi nạn đói bùng nổ tại 32 tỉnh miền Bắc và Bắc Trung Bộ, từ Quảng Trị trở ra, tòa khâm sai tại Hà Nội lệnh cho các tỉnh miền Bắc phúc trình về tổn thất. Có 20 tỉnh báo cáo số người chết vì đói và chết bệnh là 400.000, chỉ tính miền Bắc. Thế nhưng trên thực tế, nạn đói năm ấy được miêu tả là “cái đói không buông tha ai, trọng tâm là những người dân nghèo, người lao động, đặc biệt là nông dân không có ruộng đất chuyên đi làm thuê và nông dân ít ruộng đất”.
Tháng 3/1945, nạn đói năm Ất Dậu lên đến đỉnh điểm. Lũ lượt người ngược, kẻ xuôi chạy đói đến các thành phố lớn, họ bán cơ nghiệp để lấy tiền đi đường. Đặc biệt, người dân Hà Nội khi ấy đã phát động Ngày cứu đói, lập trại tế bần phát cháo. Người sắp chết thì được đưa về trại Giáp Bát, còn người chết đói thì xác chất đầy xe bò đem đi “hất xuống hố như hất rác” tại nghĩa trang Hợp Thiện (Hai Bà Trưng). Đích thân mục sư Lê Văn Thái, nguyên Hội trưởng Hội thánh Tin lành Việt Nam thời kỳ 1942-1960 ghi lại rằng:
“Tôi thường nghe tiếng rên xiết của những người sắp chết, thấy những đống thịt quằn quại gần những xác chết, nơi này 5-3 xác chết, chỗ khác từng đống người sống nằm lẫn với người chết. Trên những đoàn xe bò đầy những xác chết, mỗi xe chỉ phủ một chiếc chiếu, trong những cái hầm mấy trăm xác chết mới lấp một lần. Một vài lá cải thối trong đống rác, một vài hột cơm đổ bên cạnh vò nước gạo thì họ kéo nhau từng lũ đến tranh cướp”.
Nạn đói ở Việt Nam vào năm 1945
© Ảnh : Vo An Ninh/Museum of Vietnamese History
Nguyên nhân gây ra nạn đói năm 1945 là gì?
Nghiên cứu về nạn đói năm 1945 của GS. Văn Tạo và GS. Furuta Motoo có đề cập rằng, chính sách vơ vét thóc gạo của phát xít Nhật và thực dân Pháp lúc bấy giờ cùng với thiên tai, mất mùa ở nhiều tỉnh đồng bằng Bắc Bộ là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến thảm cảnh trên.
Tới tháng 10/1940, khi đặt chân đến Đông Dương, quân Nhật thi hành hàng loạt chính sách đánh vào nền kinh tế: buộc thực dân Pháp phải ký kết nhiều hiệp ước yêu cầu cung cấp lương thực, giao nộp lúa, gạo cho Nhật hàng năm; cấm vận chuyển lương thực từ Nam ra Bắc, hạn chế chuyên chở tự do, chỉ cho chở dưới 50 cân gạo trong một tỉnh; bắt người dân nhổ lúa trồng đay, dành ruộng trồng lạc.
Trong khi Nhật vơ vét cho chiến tranh thì Pháp dự trữ lương thực phòng khi quân Đồng minh chưa tới, phải đánh Nhật hoặc dùng cho cuộc tái xâm lược Việt Nam. Thuế đinh, thuế điền, tô tức trở thành những chiếc thòng lọng buộc vào cổ nông dân. Cũng trong năm 1944, Việt Nam bị mất mùa nhưng Pháp và chính quyền phong kiến vẫn phải cung cấp cho Nhật hơn 900.000 tấn gạo để nuôi chiến tranh phát xít và làm nguyên liệu để người Pháp nấu rượu, cùng thóc dùng đốt lò thay cho than đá. Hàng chục nghìn mẫu ngô bị phá, hàng triệu tấn thóc bị thu nộp.
Theo thống kê, năm 1940, diện tích trồng đay là 5.000 ha nhưng đến năm 1944 đã tăng lên 45.000 ha. Nhật cấm vận chuyển lúa từ miền Nam ra, vơ vét thóc ở miền Bắc khiến giá thóc, gạo tăng vọt.Năm 1943, một tạ gạo giá chính thức là 31 đồng, giá chợ đen là 57 đồng; năm 1944 tăng lên 40 đồng, giá chợ đen là 350 đồng, nhưng đến đầu năm 1945 thì giá chính thức vọt lên 53 đồng còn giá chợ đen từ 700-800 đồng. Giá gạo “phi nước đại” khiến người dân không đủ sức mua, phải chịu cảnh chết đói.
Tháng 9/1944, lại xảy ra lụt vỡ đê La Giang (Hà Tĩnh), đê sông Cả (Nghệ An) làm cho nạn đói diễn ra trầm trọng hơn.Theo những người dân trải qua nạn đói khủng khiếp ở Tây Lương (Tiền Hải, Thái Bình) thì vụ mùa năm 1944, lúa trên các cánh đồng rộng hàng trăm mẫu đều bị "rù" (rầy phá hoại), chết trắng, chết vàng. Cả mẫu ruộng không thu nổi vài chục cân thóc mẩy.
Bên cạnh đó, tình trạng địa chủ chiếm hữu phần lớn ruộng đất khiến phần lớn nông dân không có hoặc chỉ có rất ít đất canh tác, nên không có khả năng sản xuất đủ lương thực nuôi sống gia đình. Nếu cả làng bị mất mùa, không vay mượn được họ hàng thì cả toàn bộ nông dân nghèo trong làng sẽ lâm vào cảnh chết đói.
Theo các nhà nghiên cứu lịch sử, để chống lại cái đói, cái chết cận kề, người dân ăn từ rau dại, đến củ chuối, vỏ cây, giết cả trâu bò, chó mèo; dân chài thì ăn củ nâu, cá chết hay thậm chí theo nhiều nhân chứng kể lại là ăn cả thịt người chết. Khi không còn gì ăn thì họ ngồi chờ chết, để người nhà mang đi chôn hoặc chết ở bờ bụi khi đi kiếm ăn. Cái chết đến từ từ, thảm khốc, dày vò cả thể xác lẫn tinh thần. Cái đói khiến cha bỏ con, chồng bỏ vợ, tình người đứt đoạn, đi xin ăn không được thì cướp giật. Ở các vùng quê, hàng nghìn hộ gia đình chết cả nhà, nhiều dòng họ chỉ một vài người sống sót, lay lắt.
Đi tìm sự thật lịch sử nạn đói năm 1945
GS Văn Tạo và GS Furata Motoo (đại điện Tiểu ban hợp tác Việt - Nhật) đã thực hiện một nghiên cứu về nạn đói để làm rõ một sự thật lịch sử đau lòng, một cơn ác mộng, một nỗi đau nhức nhối, khó quên, một tội ác cần được lên án - đó là nạn đói khủng khiếp xảy ra ở Việt Nam năm 1945 do phát xít Nhật gây ra, làm cho hơn 2 triệu người chết đói chỉ trong vòng một thời gian ngắn.
Theo GS. Tạo và Motoo, trên thực tế, vào thời điểm bấy giờ có một thực trạng là nhân dân Nhật Bản và nhân dân thế giới có rất ít người biết đến nạn đói 1945 ở Việt Nam, hoặc có người biết đến, hoặc biết nhưng chưa tường tận mức độ ghê gớm của thảm kịch này. Cùng với đó, ở Nhật Bản, sự xuyên tạc sự thật lịch sử nhằm đánh lạc hướng dư luận vẫn cố tình được tung ra, nhằm bảo hộ cho luận điểm rằng: Người Nhật đã có thiện chí giải phóng các dân tộc khỏi ách thực dân da trắng, sao lại còn có chuyện giết hại người dân Việt Nam bằng nạn đói được. Cũng chính vì vậy, các nhà khoa học Việt Nam và Nhật Bản đã phối hợp với nhau đấu tranh đòi hủy bỏ luận điểm sai trái này.
Cứ như vậy, các nhà khoa học Việt Nam và Nhật Bản cho rằng trước hết là cần làm rõ con số người bị chết đói (nhất là độ chênh các con số). Tiếp đó cần tìm ra nguyên nhân gây ra nạn đói (do đói ăn, hay do suy dinh dưỡng, hay do bị bóc lột kiệt sức mà chết) cũng như âm mưu giết người bằng nạn đói cùng thủ đoạn gây ra nạn đói năm 1945. Zing dẫn lời GS Văn Tạo nhắc lại rằng, các vấn đề kể trên, chỉ có thể giải đáp phần nào nhờ vào các chứng tích lịch sử còn tồn tại, bao gồm các di tích lịch sử cụ thể; các tư liệu lịch sử thành văn; các tư liệu lịch sử truyền miệng (histoire orale).
Về di tích lịch sử, GS. Tạo và Motoo đánh giá đây là loại chứng tích khá hiếm hoi.
“Tội ác giết người Việt Nam bằng nạn đói không còn để lại gì ngoài những nấm mồ chôn tập thể”, chuyên gia nói.
Những nấm mồ này chôn dưới đất chứa đựng hàng chục, hàng trăm bộ xương, nhưng trên mặt đất thì gần như không còn gì, thậm chí chỉ còn là bãi cỏ chăn bò như ở Quần Mục, Hải Phòng, hay chỉ là một mảnh vườn hợp tác xã phân cho một hộ gia đình, khi xây cất nhà họ đào lên vội vàng vùi ra chỗ khác vì quá rùng rợn, như ở Tây Lương, Thái Bình. Cũng có nơi nhân dân đã khoanh khoảng chôn những “mồ tập thể” đó lại, làm lễ tưởng niệm, dựng bia căm thù, nhưng đó chỉ là trường hợp hãn hữu. Còn đại đa số là nhân dân địa phương chỉ ghi lại nỗi thương đó trong tâm của mình. Còn những bãi tha ma đó thường được mang những cái tên dã sử như “Mả đói”, “Gò ma”.
Trong khi đó, về tư liệu thành văn điển hình như sách báo, tranh, ảnh, bảng, biểu đồ… thì dù đây là nguồn tư liệu phong phú, nhưng cũng yêu cầu cần xử lý một cách khoa học và sử dụng một cách thận trọng. Về các tư liệu lịch sử truyền miệng (histoire orale), để làm rõ được tính khủng khiếp của nạn chết đói, nhất là làm rõ được con số nạn nhân chết đói, không có tư liệu nào thay thế được tư liệu điều tra thực địa bằng phương pháp xã hội học lịch sử.
Trong đó, việc điều tra này có sự tham gia của các nhân chứng lịch sử, đó những người được chứng kiến nạn đói xảy ra, hoặc những người còn sống sót qua nạn đói. Họ không những cung cấp số người chết mà còn mô tả thảm cảnh đó diễn ra như thế nào.
Nhóm tác giả đã đặt cho mình trách nhiệm “phải đi tìm sự thật lịch sử chứ không phải chỉ nhằm làm rõ con số hơn hai triệu người chết đói” khi biên soạn cuốn sách Nạn đói năm 1945 ở Việt Nam - Những chứng tích lịch sử.
Do đó, sau khi thu thập được hơn 344 tư liệu thành văn, nhóm tác giả tiếp tục thực hiện một cuộc điều tra thực địa theo phương pháp xã hội học lịch sử. Những vấn đề được đặt ra trong cuộc điều tra này là: Nạn đói diễn ra ở đâu? Tầng lớp nào chết nhiều nhất? Tính chất tàn bạo của kẻ giết người và tính tàn khốc của cảnh chết đói diễn ra như thế nào? Lấy gì làm bằng chứng? Tiếp đó, vào các năm 1992, 1993-1994 và 1994-1995, diễn ra ba đợt điều tra theo phương pháp xã hội học lịch sử trên thực địa tại 23 điểm thuộc 21 địa phương Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ. Từ kết quả của ba đợt điều tra này, kết hợp với di tích lịch sử và tư liệu thành văn, các nhà khoa học Việt Nam và Nhật Bản đã tìm ra nguyên nhân, tính chất trầm trọng và hậu quả trước mắt cũng như lâu dài.
Kết quả của 23 đợt điều tra thực địa cho thấy rõ tính phổ biến của nạn đói và mức độ hủy diệt của nó. Về tính tàn khốc của nạn đói thể hiện tính tàn bạo của kẻ thù. Có thể nói nạn chết đói do phát xít gây nên có tính tàn bạo hiếm thấy trong lịch sử nhân loại.
Trong công trình nghiên cứu đầy công phu của mình, GS. Văn Tạo và Motoo cùng cộng sự đã cung cấp một thư mục liệt kê 344 tư liệu thành văn phản ánh trực tiếp và gián tiếp về nạn đói năm 1945 ở Việt Nam, bằng góc nhìn khách quan, xuyên suốt, đối diện với sự thật để tìm ra những điều mà thế hệ sau cần phải biết về sự thật lịch sử nạn đói năm Ất Dậu 1945 ở Việt Nam.