Đồng Việt Nam mất giá kỷ lục và cuộc họp 7 tiếng của Ngân hàng Nhà nước

Việt Nam Đồng (VND) - đồng nội tệ của Việt Nam ghi nhận mức sụt giảm kỷ lục trước áp lực tăng lãi suất củng cố sức mạnh đồng bạc xanh USD của Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (FED).
Sputnik
Trong bối cảnh đó, một cuộc họp kéo dài đến 7 tiếng đồng hồ của Ngân hàng Nhà nước cho thấy nỗ lực tìm giải pháp điều hành chính sách tiền tệ, tín dụng, kìm đà tăng tỷ giá, kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô của Việt Nam đặc biệt gây chú ý.

VND suy giảm kỷ lục và cuộc họp ‘đặc biệt nhất’ dài 7 tiếng

Thông cáo chính thức của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN-SBV) ngày 18 tháng 9 cho biết, ngày 16/9 vừa qua, cơ quan này đã tổ chức Hội nghị về công tác điều hành tín dụng dưới sự chủ trì của Thống đốc Nguyễn Thị Hồng.
“Đây có lẽ là cuộc họp “đặc biệt” nhất vì kéo dài 7 tiếng với sự tham gia phát biểu ý kiến của tất cả Ban lãnh đạo, các Vụ cục liên quan của NHNN và các tổ chức tín dụng (TCTD) để NHNN tiếp thu ý kiến trong việc điều hành tín dụng hiện nay và năm 2023”, - Ngân hàng Nhà nước cho biết.
SBV cũng khẳng định các ý kiến phát biểu trên nguyên tắc công khai, minh bạch, thẳng thắn nhằm hướng tới mục tiêu điều hành tín dụng hiệu quả, phù hợp góp phần ổn định kinh tế vĩ mô, hỗ trợ tăng trưởng và đảm bảo an toàn hệ thống ngân hàng trước bối cảnh lạm phát, lãi suất trên thế giới tăng cao và tình hình địa chính trị trên thế giới dự báo còn diễn biến phức tạp tác động đến kinh tế toàn cầu. Phát biểu khai mạc Hội nghị, Thống đốc Nguyễn Thị Hồng lưu ý, nền kinh tế thế giới thời gian vừa qua có nhiều biến động khó lường ảnh hưởng lớn đến kinh tế trong nước.
Đồng Việt Nam suy giảm kỷ lục, Ngân hàng Nhà nước sẽ can thiệp chính sách tiền tệ?
“Nền kinh tế Việt Nam có độ mở cửa lớn, sản xuất phụ thuộc nhiều vào nguyên vật liệu nhập khẩu trong khi giá cả thế giới tăng cao và có thể tiếp tục tăng nếu như diễn biến lạm phát thế giới chưa kiểm soát được. Bên cạnh đó, theo đánh giá của quốc tế, kỳ vọng lạm phát đối với Việt Nam là tương đối lớn”, - thống đốc thừa nhận.
Bà Hồng nêu rõ, với nhiệm vụ điều hành chính sách tiền tệ (CSTT), góp phần kiểm soát lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, hỗ trợ phục hồi tăng trưởng kinh tế, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam “không thể chủ quan” với diễn biến của lạm phát và không thể chỉ kiểm soát lạm phát năm nay mà còn các năm sau. Đó là mục tiêu kiên định trong dài hạn.
Cuộc họp của Ngân hàng Nhà nước càng gây chú ý khi đồng Việt Nam đang ghi nhận đà giảm kỷ lục. Theo Bloomberg, tiền đồng của Việt Nam đã giảm tới 0,16% xuống 23.650 đồng/USD vào hôm 16/9 vừa qua, mức thấp nhất kể từ năm 1993. Ngày 19/9, Ngân hàng Nhà nước niêm yết tỷ giá trung tâm giữa USD và VND ở mức 23.295 đồng/USD, tăng 12 đồng so với phiên cuối tuần trước. Giá bán USD niêm yết tại Sở Giao dịch NHNN hôm nay ở mức 23.700 đồng/USD.
Tại các Ngân hàng thương mại của Việt Nam, Vietcombank niêm yết giá tỷ giá ở mức 23.530 – 23.810 đồng/USD, tăng 50 đồng so với sáng cuối tuần. BIDV giao dịch ở mức 23.530 – 23.810 đồng/USD, tăng 60 đồng. VietinBank giao dịch ở mức 23.530 – 23.810 đồng/USD, tăng 25 đồng. Eximbank niêm yết tỷ giá USD/VNĐ ở mức 23.550 - 23.790 đồng/USD, tăng 40 đồng so đầu giờ sáng cuối tuần trước.
Theo thống đốc Nguyễn Thị Hồng, nhiệm vụ quan trọng là đảm bảo ổn định an toàn hoạt động hệ thống ngân hàng và triển khai các giải pháp theo Nghị quyết 43 của Quốc hội thông qua gói hỗ trợ lãi suất 2% với quy mô 40.000 tỷ từ nguồn ngân sách nhà nước để hỗ trợ nền kinh tế. Đồng thời, hiện nay, việc điều hành tín dụng của Ngân hàng Nhà nước đang được sự quan tâm lớn của dư luận, doanh nghiệp, các tổ chức tín dụng, chuyên gia, báo chí...
Tỷ giá USD/VND lập đỉnh lịch sử, chuyện gì đang xảy ra với Đồng Việt Nam?
“Vấn đề đặt ra đối với Ngân hàng Nhà nước là phải giải bài toán tổng thể, bởi chính sách điều hành hôm nay không chỉ ngắn hạn mà cần phải căn cơ, dài hạn, bài bản, vừa góp phần ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát vừa đảm bảo an toàn hệ thống, hỗ trợ tăng trưởng, ổn định tỷ giá, lãi suất”, - thống đốc Nguyễn Thị Hồng cho biết.

Thế giới biến động nhưng Việt Nam quyết giữ chính sách tiền tệ ổn định

Theo ông Phạm Chí Quang – Phó Vụ trưởng phụ trách Vụ Chính sách tiền tệ, trước 2021 do đặc thù kinh tế Việt Nam, các nhu cầu vốn phụ thuộc chủ yếu vào tín dụng ngân hàng, kênh tín dụng là kênh cung cấp vốn chủ yếu cho nền kinh tế, có tốc độ tăng rất nhanh.
Giai đoạn 2007 - 2010, tín dụng tăng bình quân trên 36%, tỷ lệ tín dụng/GDP cũng tăng rất nhanh, kéo theo các cuộc đua lãi suất, dẫn đến lãi suất cho vay tăng nhanh, nợ xấu hệ thống ngân hàng tăng cao. Nhiều tổ chức tín dụng mất khả năng thanh toán, hệ thống đứng trước bờ vực khủng hoảng, gây bất ổn kinh tế vĩ mô, lạm phát lên mức 2 con số, đỉnh điểm là vào năm 2008. Các tổ chức quốc tế IMF, WB, Moody’s… cảnh báo nới lỏng tín dụng giai đoạn này đã gia tăng nguy cơ rủi ro trọng yếu đối với nền kinh tế, đe dọa an toàn hệ thống, mất khả năng kiểm soát, nợ xấu...Ngoài ra kinh tế Việt Nam có độ mở lớn, nên tác động của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu đã tác động kéo dài ảnh hưởng nghiêm trọng đến nền kinh tế, đặc biệt là hoạt động ngân hàng.
Nước cờ khôn ngoan của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
Cũng theo ông Quang, sự ổn định của thị trường tiền tệ đã góp phần kiểm soát lạm phát, góp phần thúc đẩy các tổ chức tín dụng nâng cao năng lực quản trị điều hành, cải thiện các chỉ số an toàn hoạt động và giảm mặt bằng lãi suất thị trường.
“Từ 2020 đến nay, kinh tế Việt Nam liên tục trải qua nhiều biến động lớn, ảnh hưởng trọng yếu đến hoạt động ngân hàng”, - ông Quang nói và bổ sung rằng, áp lực lạm phát tăng cao, khiến hầu hết Ngân hàng Trung ương trên thế giới đẩy nhanh tiến trình thắt chặt chính sách tiền tệ, tăng mạnh lãi suất, gây thách thức rất lớn cho công tác điều hành chính sách tiền tệ và tín dụng của NHNN.

Đánh giá về chính sách tiền tệ và điều hành tín dụng của NHNN

Tại Hội nghị, đa số các ý kiến đánh giá việc điều hành tín dụng của NHNN trong thời gian qua là phù hợp. Các ý kiến đều cho rằng Việt Nam chưa thể bỏ công cụ hạn mức tín dụng. Tỷ lệ tăng trưởng tín dụng 14% năm 2022 là phù hợp trong bối cảnh phục hồi kinh tế sau dịch và đã tăng cao hơn so với năm trước.
Đồng thời, cần có tỷ lệ phân bổ theo chất lượng hoạt động của các tổ chức tín dụng tránh việc phân bổ cào bằng, nếu tỷ lệ tăng trưởng tín dụng cao sẽ dẫn đến nguy cơ chạy đua lãi suất giữa các tổ chức tín dụng và an toàn hệ thống. Cũng tại Hội nghị, đa số lãnh đạo các ngân hàng như Vietcombank, Vietinbank, BIDV, Agribank, Sacombank, SHB, MB…đều đồng tình với đánh giá, nhận định của NHNN về tình hình kinh tế vĩ mô và các giải pháp chỉ đạo, điều hành của NHNN thời gian qua.
“Nền kinh tế trong nước đang chịu nhiều áp lực do tác động lan tỏa của biến động kinh tế toàn cầu. Chúng ta phải đảm bảo kinh tế vĩ mô, các cân đối lớn một cách hợp lý nhất để vừa kiểm soát lạm phát, vừa đảm bảo phục hồi và tăng trưởng”, - NHNN nhấn mạnh.
Về phần mình, NHNN phải đối mặt với nhiều áp lực lớn, do đó việc kiểm soát tăng trưởng tín dụng để tránh ảnh hưởng đến lạm phát là điều tất yếu. Đồng thời các ý kiến cũng kiến nghị Chính phủ cần có giải pháp hiệu quả phát triển và thu hút vốn trung và dài hạn từ các kênh khác như trái phiếu, chứng khoán và thu hút đầu tư nước ngoài…
Không bất ngờ với ‘nước cờ’ mới của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
“Nền kinh tế không nên quá phụ thuộc vào vốn tín dụng với bản chất kinh tế chủ yếu phục vụ vốn ngắn hạn và lưu động… Hiện nay, xã hội đang có xu hướng tập trung quá nhiều vào tín dụng ngân hàng thậm chí kể cả vốn trung và dài hạn, điều đó tạo áp lực lên hệ thống ngân hàng và lâu dài ảnh hưởng đến an toàn hệ thống ngân hàng và nền kinh tế”, - theo NHNN.
Phát biểu tại Hội nghị, bà Lê Thị Thúy Sen – Vụ trưởng Vụ Truyền thông cho biết, các tổ chức quốc tế khuyến cáo Việt Nam, NHNN phải kiểm soát hạn mức tín dụng. Gần đây WB, IMF, hay các tổ chức xếp hạng tín nhiệm toàn cầu đều cảnh báo về tỷ lệ tín dụng/GDP của Việt Nam và tỷ lệ tổng tài sản của ngân hàng trong nước/GDP đang ở mức cao. Mới đây Moody’s đã nâng mức tín nhiệm quốc gia của Việt Nam từ mức Ba3 lên mức Ba2, nhưng tiếp tục cảnh báo về các tỷ lệ này, là một trong những tỷ lệ cao nhất trong số quốc gia xếp hạng Ba và Baa. Chưa kể áp lực ngắn hạn đối với tỷ giá, lãi suất, vấn đề tăng vốn của các ngân hàng không theo kịp quy mô tăng tín dụng… cũng các tổ chức quốc tế (IMF, WB, Fitch Ratings, S&P) cảnh báo. Nhiều chuyên gia đánh giá cao sự điều hành chính sách tiền tệ của NHNN trong thời gian qua trong việc góp phần kiềm chế lạm phát và phục hồi kinh tế sau dịch.
“NHNN phải rất khéo léo, linh hoạt, thận trọng để đảm bảo hài hòa trong điều hành giữa các thành tố của thị trường tiền tệ để đạt mục tiêu góp phần kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, hỗ trợ tăng trưởng và an toàn hệ thống ngân hàng”, - theo bà Sen.
Phát biểu tại cuộc họp, ông Phạm Quang Dũng, Chủ tịch HĐQT Ngân hàng TMCP Ngoại thương Việt Nam (Vietcombank) cho rằng chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng là một tham số kinh tế vĩ mô rất quan trọng, các Ngân hàng Trung ương trên thế giới đều kiểm soát chỉ tiêu này trực tiếp hoặc gián tiếp.
Tại Việt Nam từ 2011 đến nay, NHNN đã thực hiện phân bổ chỉ tiêu tín dụng, biện pháp này đã góp vai trò quan trọng thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, ổn định vĩ mô, ổn định tỷ giá, kiểm soát lạm phát… Theo Vietcombank, tăng trưởng tín dụng hàng năm đã được tính toán và xác định dựa trên các mô hình kinh tế lượng, căn cứ mục tiêu lạm phát, diễn biến kinh tế vĩ mô, tổng quy mô TTTD được xử lý khoa học.
Ngân hàng Nhà nước bán ngoại tệ để bình ổn thị trường
Bà Ngô Thu Hà – Quyền Tổng Giám đốc NHTMCP Sài Gòn - Hà Nội (SHB) đánh giá, trong bối cảnh vĩ mô của năm 2021 – 2022, việc điều hành chính sách tiền tệ, chính sách tín dụng của NHNN đã góp phần hỗ trợ phục hồi kinh tế, tạo thuận lợi cho các ngân hàng triển khai hoạt động kinh doanh. Cơ bản ngân hàng đồng thuận với định hướng và các chỉ tiêu phân bổ.
Đồng tình, ông Lưu Trung Thái – Tổng Giám đốc Ngân hàng Thương mại Cổ phần Quân đội (MB) cho rằng, thực tế nhiều năm qua đã chứng minh phương pháp điều hành tín dụng của NHNN và phân bổ chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng hàng năm cho từng tổ chức tín dụng đã phát huy hiệu quả trong việc kiềm chế lạm phát, ổn định vĩ mô và hỗ trợ tăng trưởng kinh tế. Theo ông Thái, nhu cầu vốn của nền kinh tế hiện nay là rất lớn, tuy nhiên cũng không thể dồn hết vào hệ thống ngân hàng mà cần phải phát triển qua nhiều kênh khác.

Việt Nam không thể chủ quan

Tại Hội nghị, hầu hết đại diện các ngân hàng cũng cho rằng việc duy trì xếp hạng theo Thông tư 52 để làm căn cứ phân bổ chỉ tiêu tín dụng cho từng ngân hàng là cần thiết.
Tuy nhiên, các ngân hàng đề xuất Ngân hàng Nhà nước xem xét các tiêu chí như tổ chức tín dụng lành mạnh, đáp ứng tiêu chí về an toàn, khuyến khích ở mức độ nhất định với các ngân hàng, nhà băng tuân thủ các chuẩn mực quốc tế mới như Basel III, mức độ chuyển đổi số,…
Lưu ý về áp lực lạm phát, Phó Thống đốc Phạm Thanh Hà cho biết, đây là vấn đề Việt Nam cần hết sức lưu tâm, các tổ chức quốc tế đã tiếp tục có những cảnh báo về lạm phát. Thực tế trong 2 năm vừa qua, nhiều nước đã nới lỏng tiền tệ và tài khóa để hỗ trợ phục hồi kinh tế sau dịch. Nhiều ngân hàng Trung ương các nước chủ quan với lạm phát đã khiến cho lạm phát và kỳ vọng lạm phát tăng cao. Sau đó, ngân hàng Trung ương các nước đã phải tăng nhanh và mạnh lãi suất để chống lạm phát.
“Thực tế đó khiến chúng ta không thể chủ quan, nhất là với nền kinh tế có độ mở lớn như Việt Nam”, - Phó thống đốc lưu ý.
Kết luận Hội nghị, Thống đốc Nguyễn Thị Hồng cho rằng các ý kiến trao đổi hai chiều đã có sự đồng thuận trong đánh giá về bối cảnh kinh tế có nhiều khó khăn, hệ thống ngân hàng chịu nhiều áp lực. Các ý kiến tại Hội nghị đều đánh giá công cụ kiểm soát tín dụng là một công cụ hữu ích, phù hợp với điều kiện Việt Nam và đã đóng góp tích cực đem lại ổn định cho nền kinh tế nói chung và ổn định hệ thống ngân hàng nói riêng, trong đó, các tổ chức tín dụng được hưởng lợi.
Ngân hành Nhà nước liên tục bơm tiền hỗ trợ thanh khoản
“Mặc dù chưa thể đáp ứng được tất cả mọi yêu cầu, kiến nghị của các tổ chức tín dụng nhưng tất cả các ý kiến đều nhất trí, đồng thuận để cùng hướng đến mục tiêu chung vì đất nước, vì ngành ngân hàng và từng thành viên trong hệ thống tín dụng”, - bà Hồng nhấn mạnh.
Thống đốc nhắc lại, tín dụng chỉ là một trong số các kênh vốn và không thể đáp ứng hết tất cả các nhu cầu vốn của nền kinh tế, đây cũng là điều mà không có quốc gia nào có thể thực hiện được. Do đó, về lâu dài, đại diện các tổ chức tín dụng đều đề xuất cần kiến nghị phát triển các kênh đầu tư khác như chứng khoán, trái phiếu, đầu tư công, thu hút vốn nước ngoài….Thống đốc cũng yêu cầu cần tập trung truyền thông về việc điều hành chính sách tiền tệ nói chung điều hành tín dụng nói riêng để người dân và doanh nghiệp hiểu.
Đối với các kiến nghị về tiêu chí xem xét phân bổ chỉ tiêu tín dụng, cách thức phân bổ, Thống đốc yêu cầu các đơn vị chức năng của NHNN tổng hợp, nghiên cứu, phân tích, đánh giá kỹ lưỡng về tính khả thi để hoàn thiện công cụ hạn mức tín dụng và điều hành tăng trưởng tín dụng năm 2023.
Thảo luận