Nguyên lãnh đạo CIEM cho rằng, những thách thức đang đặt ra trong ngắn và trung hạn là “rất lớn”, do đó, đã đến lúc cần phải nhìn thẳng vào sự thật của nền kinh tế Việt Nam, thay vì hài lòng với những con số báo cáo “màu hồng”.
Đừng chỉ nhìn những con số “màu hồng”
Nhận định về các báo cáo kinh tế vĩ mô của Việt Nam, TS. Lê Đăng Doanh, nguyên Viện trưởng Viện Nghiên cứu Quản lý Kinh tế Trung ương (CIEM), thông tin với Đầu tư Tài chính, chuyên trang của Sài gòn Giải phóng, cho rằng, triển vọng hiện rất lạc quan, nhưng song song với đó, cũng còn nhiều khó khăn, thách thức.
Theo TS. Lê Đăng Doanh, để đánh giá các thông tin kinh tế vĩ mô cần nghiên cứu và điều tra sâu. Khi theo dõi trong thời gian qua, có thể nhận thấy, những báo cáo tình hình tăng trưởng kinh tế - xã hội của Tổng cục Thống kê (Bộ Kế hoạch và Đầu tư), báo cáo và dự báo về tăng trưởng kinh tế Việt Nam nửa cuối năm nay do các tổ chức quốc tế đưa ra “rất cao, rất nhiều triển vọng”.
Tuy nhiên, nguyên Viện trưởng Viện Nghiên cứu Quản lý Kinh tế Trung ương chỉ ra, bên cạnh các số liệu rất lạc quan và đáng khích lệ này, có thực tế khác là doanh nghiệp đang gặp nhiều khó khăn, người lao động nghỉ việc. Kinh tế quá nhiều bất cập và thách thức.
Ông Doanh dẫn báo cáo tăng trưởng kinh tế quý 3/2022 của Việt Nam đạt mức 2 con số - mà nguyên nhân là trong quý 3 năm ngoái (2021), 2 đầu tàu kinh tế là Hà Nội và TPHCM đều bị phong tỏa, tăng trưởng GDP rất thấp.
Trên nền thấp như vậy, tăng trưởng quý III phải xấp xỉ 2 chữ số và tăng trưởng 9 tháng cao nhất trong vòng hơn chục năm qua, điều này, theo TS. Lê Đăng Doanh là bình thường. Tuy nhiên, theo chuyên gia, điều cần lưu ý là giữa con số tăng trưởng và nền kinh tế thực đang có sự lệch pha.
“Nền kinh tế hiện gặp rất nhiều khó khăn đến cả từ nội tại lẫn những biến động bất thuận từ kinh tế thế giới. Vì vậy chúng ta cần thận trọng, nghiêm túc đánh giá, nhìn thẳng vào tình hình để có chính sách điều hành cho phù hợp, tránh bị “tô hồng” qua những con số”, - chuyên gia thẳng thắn.
Khi bức tranh nền kinh tế đang tồn tại 2 gam màu trái ngược nhau giữa vĩ mô và vi mô, đánh giá về tình hình “sức khỏe” doanh nghiệp Việt hiện nay, TS. Lê Đăng Doanh cho rằng “rất đáng lo ngại”.
Ông nhận xét, các biện pháp Chính phủ đã đưa ra để hỗ trợ DN rất đáng trân trọng song vẫn chưa “đủ liều”. Trong tình hình diễn biến phức tạp như hiện nay, cần những biện pháp thực sự hiệu quả hơn.
Phân tích về các chỉ dấu cho thấy tình hình sức khoẻ doanh nghiệp trong nước hiện nay đang rất đáng báo động, TS. Lê Đăng Doanh nêu ra 4 dẫn chứng. Thứ nhất, trong những tháng cuối năm, thường đơn hàng sẽ đến dồn dập, nhưng hiện nay nhiều doanh nghiệp không có đơn hàng để xuất khẩu.
“Đơn cử, ngành dệt may, da giày hiện đơn hàng không có, hoạt động cầm chừng, người lao động bị mất việc làm hàng loạt”, - ông Doanh nói.
Thứ hai, con số về xuất khẩu, chuyên gia cho rằng, Việt Nam cần phải đánh giá xem tỷ trọng đóng góp của doanh nghiệp Việt thực sự là bao nhiêu - không thể nói khơi khơi để cào bằng.
Ông lưu ý, tăng trưởng xuất khẩu hiện nay có sự đóng góp rất lớn của khối doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (FDI), nhất là phần xuất khẩu. Hiện nay, các DN FDI đang đóng góp 68-70% tổng xuất khẩu của giá trị.
“Trong khi đó, xuất khẩu thực của doanh nghiệp nội Việt Nam rất ít, gần như không đáng kể. Chúng ta cần phải phân tích và xem xét rất cầu thị vấn đề này”, - theo TS. Lê Đăng Doanh.
Thứ ba, điểm sáng đáng kể của doanh nghiệp Việt Nam thời gian qua là nhóm ngành nông nghiệp. Thực tế, nền nông nghiệp Việt Nam đã bảo đảm được vấn đề an ninh lương thực, đời sống của người dân và phần nào đó đã giúp ghìm cương lạm phát, trong khi trên thế giới nhiều nước đang lao đao vì lạm phát do giá lương thực và năng lượng tăng phi mã. Tuy nhiên, cũng cần phải thấy rõ được mặt yếu kém, đó là năng lực cạnh tranh đang xếp hạng rất thấp.
Nguyên Viện trưởng CIEM dẫn báo cáo của VCCI cho thấy chi phí ngoài pháp luật của doanh nghiệp vẫn còn lớn, chi phí này lớn hơn nhiều so với chi phí DN bỏ ra để đầu tư vào khoa học công nghệ.
“Vấn đề ở đây là chúng ta phải hạn chế những chi phí bôi trơn để doanh nghiệp nhóm nông nghiệp tập trung vào khoa học công nghệ, nâng cao năng lực cạnh tranh”, - ông Doanh bày tỏ.
Thứ tư, quá trình chuyển đổi số. Chuyên gia phân tích, các nền kinh tế lớn trên thế giới đều đã chuyển sang chuyển đổi số, song Việt Nam vẫn chậm và chưa thực chất.
Doanh nghiệp Việt vẫn chưa tham gia sâu chuỗi giá trị, đặc biệt các hộ kinh doanh, doanh nghiệp nhỏ và vừa vốn chiếm đa số trong nền kinh tế. Động lực tăng trưởng kinh tế đến cả từ nội lực - cụ thể là các doanh nghiệp, nhưng trong nước sức khỏe của họ hiện đang giảm sút, hệ quả là động lực tăng trưởng đang bị bào mòn.
Thách thức
Dự báo các thách thức đối với nền kinh tế Việt Nam trong những tháng cuối năm, theo TS. Lê Đăng Doanh, đất nước sẽ còn phải đối mặt với nhiều khó khăn.
Trước hết, dư địa cho điều hành chính sách tài khóa, tiền tệ không còn nhiều, ảnh hưởng đến khả năng phục hồi và mở rộng sản xuất của các doanh nghiệp khi khó tiếp cận nguồn vốn.
Tiếp đó, công tác quản lý, điều hành giá xăng dầu chưa theo nguyên tắc thị trường làm ảnh hưởng nguồn cung và giá bán lẻ trong nước đã và đang diễn ra, cũng tác động rất lớn đến hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp mà đến nay các cơ quan chức năng vẫn đang loay hoay tháo gỡ.
Theo TS. Doanh, nhìn vào thị trường sẽ thấy yếu tố tăng trưởng cả về cung và cầu của nền kinh tế tuy đã đạt ở mức cao, nhưng cơ bản chưa bù đắp được mức giảm sút của năm trước do tác động của dịch Covid-19.
Trong khi đó, những vấn đề nội tại của nền kinh tế tích tụ nhiều năm đã đến lúc cần phải giải quyết, như việc chậm giải ngân vốn đầu tư công, quá trình cơ cấu lại nền kinh tế và những yêu cầu mới đặt ra cho nhiệm vụ hoàn thiện thể chế, cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia.
Cuối cùng, theo chuyên gia, những dự báo về triển vọng tăng trưởng kinh tế toàn cầu đang xấu đi, sẽ ảnh hưởng không nhỏ đến đà phục hồi của kinh tế Việt Nam khi nền kinh tế có độ mở lớn.
“Tóm lại, tôi cho rằng chúng ta cần nhìn sâu, nhìn thẳng vào thực trạng của nền kinh tế, thay vì chỉ nhìn vào những con số báo cáo đầy màu hồng”, - TS. Lê Đăng Doanh thẳng thắn.
Kinh tế Việt Nam khó suy thoái nhưng cần linh hoạt
Trong bối cảnh lạm phát tăng cao kỷ lục, nguy cơ suy thoái đe doạ nhiều nền kinh tế, các chuyên gia cho rằng, Việt Nam cần linh hoạt giải quyết các vấn đề nội tại, tạo động lực cho tăng trưởng.
Ông Nguyễn Minh Cường, chuyên gia kinh tế trưởng của Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB) tại Việt Nam, cho rằng, rủi ro của đất nước hiện nay không phải đến từ nội tại của nền kinh tế mà là yếu tố tâm lý. Có thể thấy yếu tố này đã tác động rất mạnh đến thị trường tài chính ngân hàng thời gian gần đây. Do đó, việc hạn chế yếu tố tâm lý này là rất quan trọng.
“Hiện tại, thị trường tài chính của Việt Nam hoàn toàn ổn, hệ thống ngân hàng cũng rất ổn, song những yếu tố tâm lý có thể làm cản trở hoạt động, thậm chí làm tắc nghẽn kênh dẫn vốn, động mạch vốn của nền kinh tế”, - chuyên gia của ADB lưu ý.
Khó khăn thứ hai, theo ông Cường, trong bối cảnh các nước chuyển sang siết chặt chính sách tiền tệ, kênh cung cấp vốn quan trọng cho nền kinh tế chính là thông qua đầu tư công và chính sách tài khóa. Nếu không kịp thời giải ngân đầu tư công, những biện pháp hỗ trợ không kịp thời sẽ tắc tiếp một kênh cấp vốn cho nền kinh tế nữa.
“Đầu tư công thậm chí phải phình to ra gấp đôi để bù lại kênh kia nhưng trên thực tế đang giải ngân rất chậm. Đây là điều cần hết sức quan tâm trong năm 2023”, - chuyên gia kinh tế trưởng của ADB nhấn mạnh.
Nhận định nền kinh tế Việt Nam khó rơi vào suy thoái, tuy nhiên, theo TS. Nguyễn Hữu Huân, Trường Đại học Kinh tế TP.HCM, khó khăn là có. Trao đổi với Người lao động, ông Huân cho biết, do giai đoạn vừa qua, chính sách tiền tệ được thực hiện rất chặt chẽ nhằm kiểm soát lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô nhưng ở chiều ngược lại khó khăn về vốn đối với các doanh nghiệp là rất lớn.
Chuyên gia phân tích, khi các doanh nghiệp không tiếp cận được vốn qua các kênh như tín dụng, trái phiếu… sẽ khó hoàn thành chỉ tiêu sản xuất kinh doanh, đầu tư, từ đó ảnh hưởng đến tăng trưởng của nền kinh tế trong quý IV/2022 và 2 quý đầu năm tới vì đà tăng trưởng có độ trễ.
“Do đó, thời gian tới sẽ khó khăn và bài toán lớn nhất lúc này là phải khơi thông được dòng vốn cho các doanh nghiệp, kể cả doanh nghiệp sản xuất kinh doanh và có thể phải cân nhắc trong năm sau tính giải pháp hỗ trợ cho thị trường bất động sản”, - TS. Nguyễn Hữu Huân nói.
Ông Huân đề xuất cần sớm có giải pháp tổng thể giải quyết bài toán vốn cho thị trường, bao gồm cả vốn tín dụng, vốn từ trái phiếu doanh nghiệp và cả thị trường chứng khoán.
Chuyên gia lưu ý, nếu không xử lý tốt, có thể nền kinh tế phải đối mặt với nguy cơ nợ xấu mà suốt nhiều năm qua vẫn chưa xử lý triệt để.
Đồng thời, trong trường hợp lạm phát ở Mỹ tiếp tục hạ nhiệt và lộ trình tăng lãi suất của Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) chậm lại có thể tạo dư địa cho Ngân hàng Nhà nước điều hành chính sách tiền tệ linh hoạt hơn, có thể nới thêm hạn mức tín dụng để thêm vốn cho nền kinh tế.
Như Sputnik đã thông tin, tại Nghị quyết 143 của Chính phủ vừa qua, Chính phủ Việt Nam đã yêu cầu Ngân hàng Nhà nước (NHNN) điều hành lãi suất, tỷ giá, tín dụng linh hoạt, phù hợp với diễn biến tình hình.
Chính phủ cũng cho phép NHNN có biện pháp can thiệp thị trường ngoại hối khi cần thiết theo quy định, bảo đảm ổn định thị trường tiền tệ và hệ thống các tổ chức tín dụng, hạn chế tình trạng găm giữ ngoại tệ, chuyển tài sản bằng tiền đồng sang ngoại tệ, ngăn chặn tình trạng đô la hoá và vàng hoá trong nền kinh tế.
Chính phủ cũng đề nghị NHNN đảm bảo cung cấp đủ vốn tín dụng cho nền kinh tế, tập trung vào sản xuất kinh doanh, các lĩnh vực ưu tiên và các động lực tăng trưởng, kiểm soát chặt chẽ tín dụng vào các lĩnh vực tiềm ẩn rủi ro.