Phương Tây có dự báo sai lầm về kinh tế Việt Nam?

Với tình hình khó khăn hiện tại, đặc biệt là sau khi GDP quý 1 chỉ tăng 3,32%, xuất hiện thêm dự báo cho rằng, tăng trưởng kinh tế Việt Nam năm nay có thể sẽ thấp hơn các dự báo trước đó.
Sputnik
Theo báo cáo được Viện Nghiên cứu Kinh tế và Chính sách (VEPR) công bố, kinh tế Việt Nam nhiều khả năng sẽ đạt tăng trưởng GDP 6% năm 2023, CPI bình quân khoảng 4%.

Việt Nam đã trải qua sự tăng trưởng kinh tế chưa từng có

Viện Nghiên cứu Kinh tế và Chính sách (VEPR) trực thuộc Trường Đại học Kinh tế - Đại học Quốc gia Hà Nội và Viện Friedrich Naumann Foundation (FNF) tại Việt Nam đã cập nhật những dự báo mới nhất về tăng trưởng kinh tế Việt Nam 2023 tại Hội thảo diễn ra ngày 22/6.
Theo báo cáo Thường niên Kinh tế Việt Nam 2023 được VEPR và FNF công bố hôm nay cho rằng, tăng trưởng kinh tế Việt Nam năm 2023 thấp hơn các dự báo đã được nhiều tổ chức, định chế tài chính công bố trước đó.
Phát biểu khai mạc, GS.TS Andreas Stoffers, Giám đốc Quốc gia của Viện Friedrich Naumann Foundation (FNF) tại Việt Nam cho rằng, Việt Nam đã trải qua sự tăng trưởng kinh tế chưa từng có.
Theo báo cáo mới nhất của Quỹ Di sản (Heritage Foundation), Việt Nam hiện là một trong những quốc gia tự do về kinh tế.
Việt Nam ồ ạt hạ lãi suất để tránh đổ vỡ kinh tế, NHNN đã bán ròng 25 tỷ USD
Cùng với đó, tốc độ tăng trưởng kinh tế của Việt Nam cũng rất ấn tượng.
“Bên cạnh Ba Lan, Việt Nam là quốc gia đã phát triển nhanh nhất trong những năm gần đây và xu hướng này vẫn chưa kết thúc. Nguyên nhân đến từ việc Việt Nam không đi chệch khỏi những giá trị cơ bản trong cuộc khủng hoảng do Covid-19 gây ra”, - TS. Stoffers khẳng định.
Dù vậy, theo đại diện FNF, hiện tại là thời điểm khó khăn đối với Việt Nam – một quốc gia hội nhập kinh tế quốc tế cao khi các biện pháp chống lại Covid-19 đã gây ra một cuộc khủng hoảng lớn trên toàn thế giới và làm gián đoạn chuỗi cung ứng, chuỗi giá trị toàn cầu.
Đánh giá về các vấn đề mà Việt Nam đang phải đối mặt, nhóm chuyên gia cho rằng, khu vực công nghiệp và xây dựng giảm tốc mạnh mẽ từ quý 2 năm ngoái, đồng thời, tính chung 5 tháng đầu năm 2023, chỉ số sản xuất công nghiệp IIP ước tính giảm 2% so với cùng kỳ năm trước, cho thấy những tín hiệu khó khăn của nền kinh tế.
Lạm phát ở Việt Nam vẫn ở mức cao, theo các chuyên gia, dù đã hạ nhiệt do áp lực từ lạm phát toàn cầu và giá nguyên liệu đầu vào tăng.
Trong 5 tháng đầu năm 2023, Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) cũng tăng 3,55% so với cùng kỳ 2022. Theo báo cáo, lạm phát cơ bản tăng 4,54% chính là “ẩn số” cho việc điều hành ổn định kinh tế vĩ mô của Việt Nam trong nửa cuối năm 2023 này.
Thêm nữa, tỷ giá tại Việt Nam có nhiều biến động mạnh từ cuối quý 2/2022, nhất là giai đoạn đỉnh điểm vào tháng 11/2022. Các doanh nghiệp nhập khẩu mở rộng dự trữ ngoại hối USD phòng ngừa rủi ro tỷ giá trong tương lai, trong khi đó, các doanh nghiệp xuất khẩu lại tăng găm giữ ngoại tệ để chờ cơ hội bán ra với giá cao hơn. Dự trữ ngoại hối của Nhà nước cũng có dấu hiệu sụt giảm mạnh năm qua.
Tín hiệu mới về kinh tế Việt Nam
Tuy vậy, tỷ giá USD/VND đầu năm 2023 đã ổn định trở lại do Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (FED) đã giảm tốc độ gia tăng lãi suất và lạm phát tại Mỹ hiện được duy trì ổn định, bền vững, khiến đồng bạc xanh giảm giá mạnh trên các thị trường trong nước và quốc tế.
Bên cạnh đó, gánh nặng lãi vay cho doanh nghiệp, xung đột Nga – Ukraina và xuất khẩu Việt Nam phụ thuộc nhiều vào doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) cũng được xem là các thách thức của nền kinh tế trong nửa cuối năm nay.

Kịch bản tăng trưởng kinh tế Việt Nam

Đánh giá về cơ hội tăng trưởng năm 2023 của kinh tế Việt Nam, báo cáo của VEPR và FNF cho rằng, Việt Nam có 4 cơ hội.
Thứ nhất, các chính sách điều hành nền kinh tế gần đây cho thấy những quyết tâm thúc đẩy kinh tế trong nước, phấn đấu đạt các mục tiêu đã đề ra.
Thứ hai, tăng điều kiện xuất nhập khẩu cho nhiều ngành hàng trong bối cảnh Trung Quốc mở cửa lại.
Thứ ba, cơ hội từ làn sóng dịch chuyển chuỗi đầu tư.
Thứ tư, các hiệp định thương mại tự do FTA tiếp tục là động lực tăng trưởng thương mại của Việt Nam.
Báo cáo mới công bố của các chuyên gia Viện VEPR và FNF cũng nêu ra 3 kịch bản tăng trưởng kinh tế Việt Nam, đáng chú ý, thấp hơn nhiều so với những đánh giá, dự báo từ các tổ chức phương Tây đã công bố.
Theo đó, kịch bản thứ nhất, với tốc độ tăng trưởng kinh tế đạt 6%, CPI bình quân năm khoảng 4%, các chuyên gia nhận xét, đây là kịch bản nhiều khả năng xảy ra nhất trong điều kiện các yếu tố bên ngoài xung đột Nga – Ukraina, sự suy giảm kinh tế Trung Quốc, Mỹ cũng như các đối tác thương mại lớn của Việt Nam không gây ra nhiều ảnh hưởng tiêu cực tới kinh tế Việt Nam.
Cùng với đó, chính sách tài chính – tiền tệ được điều hành linh hoạt phù hợp, lạm phát được kiểm soát, kinh tế vĩ mô ổn định.
Kinh tế Việt Nam thăng hạng trên bản đồ thế giới: “Con rồng” trỗi dậy
Kịch bản thứ hai, xảy ra khi tốc độ tăng trưởng GDP của Việt Nam được dự báo đạt khoảng 6,5% (như mục tiêu của Chính phủ và Quốc hội – PV), CPI bình quân năm khoảng 4,2%.
Đối với kịch bản này, nhóm nghiên cứu cho rằng, sẽ ít khả năng hơn nhưng cũng có thể xảy ra khi kinh tế thế giới diễn biến tích cực, sự mở cửa của kinh tế Trung Quốc là “cú hích” quan trọng đối với nền kinh tế toàn cầu.
Các đối tác thương mại và đầu tư lớn của Việt Nam hồi phục kinh tế và các chính sách điều hành nhanh chóng phát huy hiệu quả.
Kịch bản thứ ba – tốc độ tăng trưởng GDP năm 2023 được dự báo chỉ đạt 5,5%, CIPI bình quân của năm khoảng 3,5%.
Kịch bản này, cũng như kịch bản thứ hai, được đánh giá là ít có khả năng xảy ra hơn. Tuy nhiên, nếu như diễn biến xung đột chính trị trên thế giới trở nên phức tạp hơn không những sẽ gây cản trở cho tăng trưởng kinh tế Việt Nam trong những tháng còn lại của năm 2023 mà còn là hậu quả xấu cho tăng trưởng kinh tế Việt Nam trong trung hạn.

Giải pháp cho tăng trưởng kinh tế Việt Nam

Đề xuất giải pháp giúp Việt Nam vượt qua thách thức, các chuyên gia cho rằng, Việt Nam cần xác định nhiệm vụ trọng tâm và hàng đầu trong thời gian tới là vừa cân bằng giữa mục tiêu duy trì ổn định kinh tế vĩ mô những đồng thời cũng nên tìm kiếm các giải pháp chính sách nhằm thúc đẩy sự phục hồi kinh tế, sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp nhanh chóng và mạnh mẽ.
Cần tiếp tục triển khai hiệu quả hơn chính sách tài khóa, đặc biệt là các gói hỗ trợ phục hồi cho nền kinh tế, hướng vào các ngành có tác động tích cực.
Tổng kết đánh giá việc triển khai chương trình hỗ trợ nhằm rút ngắn thời gian trong khâu thực hiện, đảm bảo hiệu quả đầu tư công đi liền với tốc độ giải ngân theo kế hoạch.
Về chính sách tiền tệ của Việt Nam, chuyên gia khuyến nghị, cần duy trì trạng thái “thích ứng” với hiện trạng nền kinh tế nhiều rủi ro, tiếp tục cân bằng giữa rủi ro tài chính với hỗ trợ phục hồi kinh tế, khơi thông sự luân chuyển của dòng vốn.
Cạnh đó, cần thúc đẩy chương trình nâng cao chất lượng doanh nghiệp, năng suất lao động và hiệu quả sản xuất kinh doanh.
Cuối cùng, theo nhóm nghiên cứu, cần phát triển các nghiên cứu chính sách độc lập, phối hợp với các viện nghiên cứu độc lập với các bộ, ngành, hiệp hội doanh nghiệp nghiên cứu, đề xuất các giải pháp giải quyết ngay ách tắc, khó khăn trong đầu tư công.
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam cố gắng hỗ trợ nền kinh tế đang suy thoái
Đồng thời, cải cách, cải thiện môi trường kinh doanh, nhất là gỡ bỏ rào cản, tạo thuận lợi và khuyến khích phát triển doanh nghiệp tư nhân trong nước, thúc đẩy tính liên kết và tự chủ của nền kinh tế Việt Nam.
Báo cáo mới công bố của VEPR cũng lưu ý đến tình hình doanh nghiệp. Theo đó, nhu cầu vốn của khu vực doanh nghiệp đang xuống rất thấp dù Ngân hàng Nhà nước liên tục giảm lãi suất điều hành.
Huy động vốn khu vực tổ chức kinh tế giảm trong khi tăng trưởng tín dụng chậm phản ánh tình trạng thanh khoản khó khăn của các doanh nghiệp.
Các doanh nghiệp tốt có dư thừa thanh khoản đã phải rút tiền gửi về để đáp ứng nhu cầu thanh khoản của mình. Ngoài ra, một phần tiền gửi tổ chức kinh tế giảm là các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, doanh nghiệp có hoạt động xuất khẩu.
Cùng với đó, doanh nghiệp có xu hướng chuyển tiền nhàn rỗi ra ngoài để hưởng lãi suất tiền USD cao trong khi lãi suất tiền gửi bằng đồng bạc xanh tại Việt Nam vẫn chỉ là 0%.

Triển vọng lạc quan

Như Sputnik đề cập, vừa qua, các tổ chức quốc tế, định chế phương Tây tiếp tục đánh giá cao về triển vọng tăng trưởng kinh tế Việt Nam.
Cụ thể, Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế (OECD) dự báo Việt Nam tăng trưởng ở mức 6,5% và 6,6% trong 2 năm 2023-2024. Ngân hàng ADB dự báo là 6,5% và 6,8%. Ngân hàng Thế giới WB dự báo mức tăng là 6,3% và 6,5%. Quỹ Tiền tệ Quốc tế IMF dự báo tăng 5,8% và 6,9%.
Trong khi, có quan điểm cho rằng, thời gian qua, các định chế phương Tây đã đưa ra các dự báo sai lầm – hoặc quá thổi phồng kinh tế Việt Nam – hoặc quá bi quan về triển vọng của nền kinh tế mới nổi này trong bối cảnh hiện nay, thì dự báo vừa công bố của VEPR là khá phù hợp.
Hé lộ cơ hội Mỹ giúp Việt Nam ‘nâng cấp’ nền kinh tế
Đánh giá về kịch bản tăng trưởng được VEPR và FNF công bố, TS. Nguyễn Đình Cung, nguyên Viện trưởng Viện Nghiên cứu Quản lý kinh tế Trung ương- Bộ Kế hoạch và Đầu tư cho rằng, trong bối cảnh xuất nhập khẩu, sản xuất công nghiệp – đều là những động lực tăng trưởng của Việt Nam – đang có tăng trưởng âm, cộng với tốc độ GDP quý 1 thấp, thì đánh giá của VEPR là “khá lạc quan”.

Doanh nghiệp Việt đang yếu đi

Theo TS. Nguyễn Đình Cung, báo cáo của Viện Nghiên cứu Kinh tế và Chính sách cũng cho thấy, hơn 97% doanh nghiệp của Việt Nam có quy mô nhỏ, năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp trong nước hạn chế, chỉ số năng suất các nhân tố tổng hợp (TFP) phản ánh năng suất và hiệu quả sản xuất của khu vực doanh nghiệp tư nhân trong nước thấp hơn nhiều so với khối doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, đồng thời, tốc độ tăng TFP cũng không cao.
Xét về doanh nghiệp, chưa bao giờ khu vực doanh nghiệp thiếu động lực tăng trưởng như hiện nay. Do đó, điều này cũng tác động đến kết quả tăng trưởng của Việt Nam năm 2023, theo TS. Nguyễn Đình Cung.
TS. Nguyễn Quốc Việt, Phó Viện trưởng VEPR, chủ biên báo cáo năm nay lưu ý, dù đã đạt nhiều thành tựu trong phát triển kinh tế năm 2022, cũng như những nỗ lực nhằm ổn định kinh tế vĩ mô và phục hồi tăng trưởng trong những tháng đầu 2023, tuy nhiên, nền kinh tế đã và đang bộc lộ những thách thức và vấn đề nội tại.
Chuyên gia lưu ý, từ quý III/2022 đến nay, kinh tế Việt Nam đã gặp phải nhiều khó khăn, bao gồm sự trầm lắng của thị trường bất động sản và thị trường trái phiếu doanh nghiệp, cùng với sự suy giảm mạnh của hoạt động xuất khẩu trong quý 4/2022. Mức lãi suất cho vay tăng cao từ tháng 7/2022 và vẫn tiếp tục neo cao cho đến tháng 2/2023.
“Tình hình đó đã làm suy yếu năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam”, - chuyên gia bày tỏ.
Điều trăn trở nhất, theo chuyên gia của VEPR, chính là lực lượng doanh nghiệp Việt. TS. Nguyễn Quốc Việt nhắc lại, doanh nghiệp Việt Nam đã đóng góp khoảng 60% GDP. Doanh nghiệp phát triển là yếu tố quyết định đến tăng trưởng cao và ổn định của nền kinh tế.
Dự báo tồi tệ về tăng trưởng kinh tế Việt Nam
“Nhưng doanh nghiệp Việt đang yếu đi. Và bên cạnh sự thua kém về năng lực cạnh tranh, năng suất lao động thì tính liên kết giữa các doanh nghiệp Việt Nam cũng rất yếu”, - ông lưu ý.
Theo đó, tâm lý kinh doanh của phần lớn doanh nghiệp nội là “mạnh ai, người ấy làm”, mà chưa nhận thức được lợi ích to lớn của việc liên kết thành cộng đồng và liên minh của các doanh nghiệp và lĩnh vực. Điều này cũng làm hạn chế khả năng doanh nghiệp nội có thể tham gia vào các chuỗi cung ứng của các tập đoàn đa quốc gia.
Thông điệp mà các nhà nghiên cứu muốn gửi gắm tại báo cáo này chính là việc, Việt Nam cần phát huy sức mạnh nội lực của hệ thống doanh nghiệp trong nước, cần tiếp tục có những cải cách đột phá về thể chế, hoàn thiện hơn nữa môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh, tiến tới nền kinh tế thị trường đầy đủ và tự do.
Đồng thời hoàn thiện chính sách hỗ trợ để kinh tế tư nhân trong nước phục hồi, nhất là các doanh nghiệp nhỏ, siêu nhỏ Việt Nam. Chuyên gia mong, Việt Nam sẽ tập trung cải cách một số lĩnh vực mà thủ tục hành chính còn nhiều phiền hà theo phản ánh từ các doanh nghiệp như thủ tục về đất, thuế, bảo hiểm xã hội, xây dựng…
Thảo luận