Cùng với đó, Việt Nam sẽ đẩy mạnh tìm kiếm công nghệ, thị trường khai thác gắn với chế biến chuyên sâu đất hiếm, hướng tới xuất khẩu.
Phê duyệt Quy hoạch thăm dò, khai thác, chế biến và sử dụng các loại khoáng sản
Phó Thủ tướng Chính phủ Trần Hồng Hà vừa ký Quyết định 866/QĐ-TTg phê duyệt Quy hoạch thăm dò, khai thác, chế biến và sử dụng các loại khoáng sản thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050.
Theo quy hoạch, Việt Nam dự tính khai thác 2 triệu tấn quặng đất hiếm mỗi năm. Như Sputnik đã thông tin, theo công bố năm 2022 của Cục Khảo sát địa chất Mỹ, Việt Nam được đánh giá là sở hữu 22 triệu tấn đất hiếm, xếp thứ 2 thế giới, chỉ đứng sau Trung Quốc vớitrữ lượng đất hiếm lớn nhất 44 triệu tấn. Đứng thứ 3 là Brazil với 21 triệu tấn. Nga, Mông Cổ, Ấn Độ cũng là những quốc gia được đánh giá có trữ lượng đất hiếm trong top đầu thế giới.
Trong suốt nhiều năm, Trung Quốc khai thác và xuất khẩu đất hiếm lớn nhất thế giới, chiếm đến 80% tổng sản lượng toàn cầu. Năm 2010, khi nước này siết chặt khai thác, xuất khẩu, đất hiếm bắt đầu được săn lùng trên toàn thế giới. Các quốc gia đi đầu trong phát triển công nghệ tìm đến Việt Nam với hy vọng có được nguồn đất hiếm thay thế.
Đất hiếm gồm 17 nguyên tố, phần lớn trong số đó đóng vai trò không thể thay thế trong sản xuất thiết bị công nghệ cao, pin, nam châm vĩnh cửu phục vụ cho xe điện, tuabin điện gió, máy bay, điện thoại và công nghiệp quốc phòng. Từ năm 2014, Bộ Tài nguyên và Môi trường Việt Nam đã cấp phép cho doanh nghiệp khai thác hai mỏ đất hiếm ở Lai Châu và Yên Bái, nhưng đến nay chưa mỏ nào hoạt động.
Đầu tư công nghệ thiết bị hiện đại khai thác đất hiếm
Đối với quy hoạch, Chính phủ Việt Nam luôn xác định chủ trương đầu tư cho nghiên cứu khoa học để làm chủ các quá trình chế biến sâu, từ khâu khai thác mỏ, tuyển quặng, thu nhận tinh quặng, đến thủy luyện tinh quặng thu nhận tổng đất hiếm, phân chia và tinh chế để thu nhận các đơn nguyên tố đất hiếm có độ sạch cao, có giá trị gia tăng cao trên thị trường thương mại thế giới.
Quy hoạch xác định phát triển ngành công nghiệp khai thác, chế biến và sử dụng khoáng sản đất hiếm một cách đồng bộ, hiệu quả và bền vững.
“Các doanh nghiệp được cấp phép mới khai thác khoáng sản đất hiếm phải gắn với dự án chế biến đến sản phẩm tối thiểu là tổng các oxit, hydroxit, muối đất hiếm có hàm lượng TREO ≥ 95%, khuyến khích sản suất tới nguyên tố đất hiếm riêng rẽ (REO), công nghệ tiên tiến, thiết bị hiện đại, thu hồi tối đa các khoáng sản có ích đi kèm, đảm bảo môi trường, an toàn về phóng xạ”, - Chính phủ lưu ý.
Tại quy hoạch mới, Chính phủ lưu ý, đối với các loại khoáng sản có trữ lượng lớn, chiến lược, quan trọng (như bauxite, titan, đất hiếm, cromit, niken, đồng, vàng), các doanh nghiệp được cấp phép khai thác mỏ phải có đủ năng lực và phải đầu tư các dự án chế biến phù hợp sử dụng công nghệ tiên tiến, thiết bị hiện đại, bảo vệ môi trường bền vững.
“Hạn chế và tiến tới chấm dứt khai thác các mỏ trữ lượng thấp, phân tán, nhỏ lẻ, tập trung tài nguyên khoáng sản từ các mỏ/điểm mỏ quy mô nhỏ thành các cụm mỏ quy mô đủ lớn để đầu tư đồng bộ từ thăm dò, khai thác, chế biến áp dụng công nghệ tiên tiến, thiết bị hiện đại”, - Chính phủ nêu rõ.
Quy hoạch nêu, đến năm 2030, các mỏ đã cấp phép như Bắc Nậm Xe, Nam Nậm Xe (Lai Châu) sẽ hoàn thành thăm dò. Nhiều mỏ khác tại Lai Châu, Lào Cai, Yên Bái được thăm dò mở rộng.
Hai mỏ được chú trọng khai thác là Đông Pao (Lai Châu) và Yên Phú (Yên Bái) với sản lượng quặng mỗi năm dự kiến 2 triệu tấn.
Sau năm 2030, ngoài mở rộng mỏ Đông Phao, Việt Nam sẽ có thêm 3-4 dự án khai thác mới tại Lai Châu, Lào Cai, nâng tổng sản lượng lên thêm hơn 100.000 tấn quặng đất hiếm mỗi năm.
Các doanh nghiệp được khuyến khích sản xuất tới nguyên tố đất hiếm riêng rẽ (REO). Nhà máy chế biến đất hiếm đặt tại xã Yên Phú, huyện Văn Yên, tỉnh Yên Bái sẽ hoàn thành đến năm 2030.
Đối với nguồnđất hiếm riêng rẽ, Chính phủ định hướng sẽ xây dựng các dự án chiết tách, chế biến tại Lai Châu và Lào Cai, công suất 20.000-60.000 tấn/năm. Hai địa phương này cũng sẽ có ba dự án thủy luyện chế biến đất hiếm.
Để đồng bộ công tác quản lý Nhà nước, các dự án khai thác mỏ, dự án đầu tư chế biến bauxite, titan, đất hiếm, cromit, niken, đồng, vàng, chì, kẽm, sắt phải được cơ quan quản lý Nhà nước về khai thác, chế biến khoáng sản cho ý kiến trước khi cấp phép.
Xem xét xuất khẩu đất hiếm
Đáng chú ý, Việt Nam đang nắm trong tay cả một "kho báu" và cũng sẽ tiến tới đẩy mạnh xuất khẩu đất hiếm.
Quy hoạch nhấn mạnh, đối với sản phẩm chế biến từ quặng đất hiếm: tổng các (oxit, hydroxit, muối) đất hiếm có hàm lượng TREO ≥ 95% và oxit đất hiếm riêng rẽ (REO) cung cấp cho nhu cầu trong nước và xem xét xuất khẩu.
Khoáng sản khai thác và chế biến đáp ứng chủ yếu cho nhu cầu trong nước. Việc xuất khẩu một số khoáng sản/sản phẩm khoáng sản sau chế biến chưa thành kim loại, hợp kim thực hiện theo chủ trương, chính sách pháp luật từng giai đoạn cụ thể và thực hiện chỉ đạo của cấp có thẩm quyền.
Trước đó, như Sputnik đưa tin, Việt Nam đang trở nên hấp dẫn trong mắt các nhà đầu tư nước ngoài như một quốc gia cung ứng đất hiếm top đầu thế giới.
Sau khi Trung Quốc hạn chế xuất khẩu đất hiếm, Nhật Bản đã tìm đến Việt Nam nhằm mở rộng nguồn cung đất hiếm từ năm 2010.
Cuối năm ngoái, Bộ trưởng Bộ Công Thương Việt Nam Nguyễn Hồng Diên và Bộ Công nghiệp, thương mại và tài nguyên Hàn Quốc cũng đã ký thỏa thuận hợp tác với về việc hợp tác thăm dò và phát triển các chuỗi khoáng sản cốt lõi, bao gồm đất hiếm tại Việt Nam, để cung cấp chuỗi cung ứng toàn cầu ổn định.
Cả Mỹ và Australia đều mong muốn hợp tác với Việt Nam để phá thế độc tôn về đất hiếm của Trung Quốc. Nghiên cứu của Trung tâm Thông tin Kỹ thuật Quốc phòng Mỹ (DTIC) cho hay, Việt Nam có những thế mạnh tiềm tàng to lớn về các nguồn tài nguyên thiên nhiên, trong đó có đất hiếm.
Việt Nam sở hữu nguồn tài nguyên khoáng sản khổng lồ chưa được khai thác, đặc biệt là các loại nguyên tố đất hiếm. Những nguyên tố được tìm thấy ở Việt Nam cùng các vật liệu phóng xạ tự nhiên (NORM), trong đó có uranium.
Đến nay, Chính phủ Việt Nam đã đặt ra mục tiêu chiến lược quốc gia là tăng cường thăm dò và khai thác tài nguyên khoáng sản, nhằm đảm bảo sự phát triển bền vững về kinh tế - xã hội, quốc phòng và an ninh.