Vnbusiness dẫn quan điểm của ông Vũ Đức Giang, Chủ tịch Hiệp hội Dệt May Việt Nam (Vitas) nhận định, ngành thời trang Việt Nam đang xếp ở top khá trên bản đồ thế giới.
Thương hiệu thời trang Việt vẫn chưa đạt quy mô quốc tế
"Hiện, nhiều thương hiệu lớn trên thế giới đang đòi hỏi các doanh nghiệp Việt Nam phải chào mẫu thiết kế, thay vì cách làm như trước đây là họ cung cấp sẵn mẫu để chúng ta gia công", - ông Giang chia sẻ.
Theo ông, nếu làm tốt điều này, có thể giúp doanh nghiệp hiện thực khát vọng xây dựng thương hiệu thời trang.
Chủ tịch Vitas cho biết, ngành thời trang Việt Nam đang xếp ở top khá trên bản đồ thế giới. Nền công nghiệp thời trang ở châu Âu có Ý, Pháp; ở châu Á có Trung Quốc, Hàn Quốc hay Việt Nam. Và, "nếu ngành công nghiệp thời trang của Việt Nam không chủ động thiết kế 3D thì sẽ không có số liệu xuất khẩu như vậy". Dù sau đi nữa, để xây dựng thương hiệu toàn cầu thì như hiện nay vẫn chưa đạt kỳ vọng, và thời gian có thể lên tới hàng trăm năm.
Sau 43 năm gắn bó ngành may mặc, ông Vũ Đức Giang hiện cũng đang giữ chức Chủ tịch HĐQT Việt Tiến. Ông Giang cho rằng, chiến lược phát triển thương hiệu thời trang của Việt Nam không chỉ bây giờ mới đặt ra mà đã được nêu từ hơn 10 năm trước.
Chủ tịch Vitas nhận định, trong ngành công nghiệp thời trang hiện nay, nhãn hàng nào có thương hiệu sẽ nắm cuộc chơi toàn cầu như Nike, Adidas, Louis Vuitton…, quyết định xu hướng thời trang thế giới.
Thời gian qua, nhiều doanh nghiệp dệt may trong nước đã đưa ra các thương hiệu thời trang phục vụ người Việt. Chẳng hạn, May 10 giới thiệu nhiều nhãn hiệu thời trang công sở như May 10 Expert, May 10 Classic, Eternity GrusZ… Hay như Đức Giang đã tung ra thị trường các thương hiệu nữ Paul Downer, DGC, S.Pearl, HeraDG, Forever Young…
"Việt Nam đã có một số thương hiệu như May Việt Tiến, May 10, An Phước nhưng còn manh mún ở trong nước", - Vnbusiness dẫn lời ông Giang.
Ngay công ty Việt Tiến cũng có tổng đại lý ở Lào, Myanmar nhưng vẫn nhỏ. Một số bạn trẻ thiết kế thời trang có thương hiệu và bán ra thế giới nhưng quy mô cũng chưa lớn. Do dó, thách thức của ngành dệt may Việt Nam thời gian tới là làm chủ cuộc chơi, đa dạng hóa thị trường.
Lợi thế giá rẻ không còn
Ngoài ra, thiết kế cũng là xu hướng mà ngành dệt may Việt Nam bắt buộc phải đi theo khi lợi thế nhân công giá rẻ dần không còn.
Theo nghiên cứu mới công bố tháng 7 năm nay của Hiệp hội Thời trang Hoa Kỳ (USFIA), kết quả khảo sát 30 CEO hãng thời trang lớn nhất ở Mỹ từ tháng 4 - 6/2023 cho thấy, có 5 yếu tố tạo nên năng lực cạnh tranh của quốc gia xuất khẩu dệt may vào Mỹ.
Các yếu tố đó bao gồm: tốc độ giao hàng, giá, tính linh hoạt và đáp ứng nhanh yêu cầu, rủi ro tuân thủ các quy định lao động và xã hội, rủi ro tuân thủ các quy định môi trường.
Trong đó, Mexico và vùng Trung Mỹ có lợi thế cạnh tranh ở tốc độ giao hàng vượt trội nhờ yếu tố vị trí địa lý, với 4/5 điểm.
Chuyên gia chỉ rõ, Việt Nam và Trung Quốc thì được đánh giá cao trong tính linh hoạt và nhanh nhẹn trong đáp ứng yêu cầu đơn hàng (4/5 điểm), nhưng giá cả lại là trở ngại khi chỉ đạt 2,5/5 điểm tại thị trường Mỹ.
Chủ tịch Giovanni Group Nguyễn Trọng Phi thì cho rằng, thương hiệu quốc tế luôn có lợi thế về hình ảnh và truyền thông. Họ đã có hàng chục năm, thậm chí lâu hơn, về kinh nghiệm xây dựng thương hiệu.
Trong khi đó, các thương hiệu Việt mới chỉ phát triển mấy năm gần đây. Dù đầu tư mạnh ra sao, doanh nghiệp Việt vẫn đi sau các thương hiệu quốc tế.
Ngoài ra, Việt Nam cũng chưa có đủ đội ngũ nhân sự được đào tạo bài bản trong lĩnh vực thời trang. Người Việt vẫn phải dùng nhân sự của những ngành khác cho nhu cầu của một công ty thời trang.
Do đó, khi đứng cạnh những thương hiệu thời trang quốc tế được đầu tư bài bản và hùng hậu về kiến thức, kinh nghiệm, thương hiệu Việt khó tránh bị lúng túng trong việc tìm cho mình lối đi, vừa giữ được tinh thần của riêng mình, vừa đuổi kịp những thương hiệu quốc tế.
Chưa hết, các doanh nghiệp dệt may Việt Nam hiễn vẫn thiếu liên kết, không khép kín được chuỗi cung ứng trong nước. Họ vẫn phụ thuộc nhiều vào nhập khẩu nguyên liệu đầu vào ở nhiều khâu trong quy trình sản xuất.
Bà Trần Thu Quỳnh, Tham tán Thương mại, Thương vụ Việt Nam tại Canada, cho biết sản xuất thương hiệu riêng của Việt Nam cần tập trung vào phân khúc thu nhập trung bình thấp của giới trẻ, chịu khó thay đổi và sẵn sàng tiêu dùng, bởi đây vẫn là thị trường ngách nhiều tiềm năng, có biên độ lợi nhuận cao.
Bên cạnh đó, cần xem xét đến việc chuyên môn hoá vào các sản phẩm thời trang chuyên dụng để có thị trường và thương hiệu riêng uy tín, hạn chế tình trạng phụ thuộc vào các đơn hàng gia công và các điều kiện của đối tác.
"Lý do, Việt Nam sẽ sớm mất ưu thế về giá nhân công, mà ví dụ điển hình là Nike đang chuyển dần tỷ trọng sản xuất sang Indonesia", - chuyên gia bày tỏ.
Để nhãn hiệu Việt tiến bước ra thế giới
Nhằm phát triển thương hiệu thời trang của Việt Nam, Vitas hướng đến mục tiêu xây dựng 2 trung tâm thời trang là TP.Hà Nội và TP.HCM, đặt ra giải pháp chiến lược cho một số thương hiệu, nhãn hiệu Việt tiến bước ra thế giới.
Đến lúc này, ngành dệt may Việt Nam vẫn trăn trở về câu chuyện thương hiệu. Theo Chủ tịch Vitas Vũ Đức Giang, điều này đến từ thực tế, hệ thống đào tạo, trường đào tạo cho công nghiệp thời trang chưa mang tầm chiến lược toàn ngành.
"Chúng ta muốn làm gì thì cũng phải có nguồn lực nên Vitas định hướng đào tạo nguồn nhân lực gắn với công nghiệp thời trang", - ông Giang phân tích.
Ngoài ra, dù là nước có nền công nghiệp thời trang phát triển, Việt Nam vẫn chưa đạt tới quy mô, tổ chức chuyên nghiệp. Đồng thời, cũng cần xây dựng thêm sân chơi trình diễn cho các nhà thiết kế.
Theo ông Trần Ngọc Quân, Tham tán thương mại, Thương vụ Việt Nam tại Bỉ và EU, xây dựng thương hiệu dệt may là một vấn đề cần quan tâm tại thị trường EU, khi hiện nay doanh nghiệp Việt Nam rất khó có thương hiệu riêng.
Thị trường EU yêu cầu các doanh nghiệp có thương hiệu phải xây dựng được chuỗi cửa hàng, chuỗi thu mua, xử lý, sửa chữa sản phẩm trong quá trình khách hàng sử dụng. Đây là vấn đề cản trở sự phát triển thị phần.
Cùng với đó, Phó Chủ tịch kiêm Tổng thư ký Hiệp hội Dệt may Việt Nam cũng lưu ý, ngành dệt may đang có những hạn chế nhất định, đó là vẫn sản xuất theo hình thức gia công, giá trị gia tăng thấp, tỷ lệ xuất khẩu qua trung gian cao, hiệu quả thấp, có rất ít doanh nghiệp xuất khẩu bằng thương hiệu riêng…
"Điều này đòi hỏi sự nỗ lực của mỗi doanh nghiệp vì trong giai đoạn khó khăn chung của thế giới, nếu doanh nghiệp không nắm bắt được cơ hội sẽ thì là người về sau", - Phó Chủ tịch kiêm Tổng Thư ký Vitas nói.