Do tính chất công việc báo chí, tôi có cơ hội nói chuyện về đất nước Việt Nam của các bạn với công dân của hàng chục quốc gia. Khi tôi hỏi họ về những biểu tượng lịch sử của Việt Nam, mọi người đều nêu lên những cái tên khác nhau. Chùa Một Cột, Văn Miếu, hồ Hoàn Kiếm, thành Cổ Loa. Nhưng câu trả lời thường là: trống đồng.
Tôi nhớ cách đây hơn 50 năm, khi lần đầu tiên đến thăm Bảo tàng Lịch sử Hà Nội, tôi đã đứng ngây ngất trước những tác phẩm tuyệt vời của các nghệ nhân văn hóa Đông Sơn. Tôi ngắm nhìn những khung cảnh tái hiện hình ảnh đời sống nhân dân từ hàng nghìn năm trước, nhìn hình dáng các loài động vật, chim chóc sống ở Việt Nam thời bấy giờ. Âu Lạc, Nam Việt - đều là chuyện sau này.
Trước đó hàng nghìn năm, trống đồng đã tồn tại, văn hóa Đông Sơn đã tồn tại, điều mà mọi người yêu nước Việt Nam đều tự hào một cách chính đáng và được cả thế giới ngưỡng mộ. Và dường như trống đồng luôn được biết đến và thừa nhận. Tuy nhiên, trong thời kỳ “Bắc thuộc”, số lượng trống Việt Nam do các bậc thầy cổ xưa đúc vốn đã ít ỏi đã giảm đi đáng kể. Nhà lãnh đạo quân sự Trung Quốc Mã Viện bắt đầu tiêu diệt Trống Đồng vào năm 44 sau Công Nguyên. Sau khi đàn áp cuộc khởi nghĩa yêu nước Hai Bà Trưng, Mã Viện đã tận thu rất nhiều trống đồng, ra lệnh nấu chảy chúng để đúc ngựa đồng dâng lên hoàng đế Trung Hoa.
Những chiếc trống đồng đầu tiên còn sót lại được phát hiện vào thời xây dựng ở Việt Nam vào cuối thế kỷ 19, khi đó chưa có khái niệm "văn hóa Đông Sơn". Các nhà khoa học thời đó gọi những chiếc trống đồng đó là "trống mưa" vì trên mặt trống có hình con ếch. Vào thời điểm đó, trống đồng không thu hút được sự chú ý đặc biệt từ các chuyên gia và chỉ được coi là đồ thủ công nguyên bản. Chúng có được cuộc sống thứ hai và sự vinh quang “văn hóa Đông Sơn” là nhờ nhà khảo cổ học người Nga Viktor Golubev, nhân viên viện Viễn Đông Bác cổ Hà Nội (tiếng Pháp: École française d'Extrême-Orient, viết tắt EFEO).
Con đường dài tới Việt Nam
Ông Viktor Golubev sinh năm 1878 và theo học tại Đại học St. Petersburg. Ông bắt đầu quan tâm đến khảo cổ học và lịch sử cổ đại phương Đông cũng như du lịch đường dài. Năm 22 tuổi, ông rời Nga sang Đức nghiên cứu khoa học và 4 năm sau đó sang Pháp. Ông đã thực hiện các chuyến thám hiểm khảo cổ đến Thổ Nhĩ Kỳ và Ai Cập, Ấn Độ, Ceylon và Indonesia. Khi Thế chiến thứ nhất bắt đầu vào năm 1914, Viktor Golubev được bổ nhiệm làm đại diện Hội Chữ thập đỏ Nga cho chính phủ Pháp. Trong suốt cuộc chiến ông đã có mặt tại mặt trận Pháp-Đức, dẫn đầu đoàn xe y tế do Nga tặng cho đồng minh của mình là nước Pháp. Ông được trao tặng huân chương chiến công. Hơn một lần ông bay lên bầu trời trên máy bay trinh sát, chụp những bức ảnh tiền tuyến từ trên không. Kinh nghiệm của công việc đó rất hữu ích cho ông sau này ở Đông Dương.
Sau khi Chiến tranh thế giới thứ nhất kết thúc, Golubev không trở lại Nga, nơi diễn ra cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa Tháng Mười, mà bắt đầu làm việc tại viện Viễn Đông Pháp và năm 1920 chuyển đến viện Viễn Đông Bác cổ Hà Nội. Cho đến năm 1945, ông đã sống tổng cộng ở Việt Nam 16 năm.
Hành trình dài xuyên Việt
Mùa xuân năm 1921, nhà khoa học Viktor Golubev làm quen với các di tích lịch sử và điêu khắc Chăm tại các cuộc khai quật ở Quảng Bình, Quảng Nam và Nha Trang. Ông biên soạn bộ lưu trữ ảnh phong phú, một số tài liệu được xuất bản vào năm 1922 trong bộ biên khảo "Nghệ thuật Châu Á" do ông sáng lập. Mùa hè năm 1923, Golubev tham gia khai quật ở tỉnh Thanh Hóa, trên địa phận thành nhà Hồ.
Sau đó, sự chú ý tập trung vào khu vực lăng mộ vua Lê ở Lam Sơn. Kinh nghiệm chụp ảnh bề mặt từ máy bay của Golubev, có được trong Thế chiến thứ nhất, đã trở nên hữu ích. Nhà khoa học cho rằng để thành công trong khai quật, cần phải bao quát toàn bộ khu vực nghiên cứu bằng con mắt sống động. Và kết quả nghiên cứu đã nhiều lần chứng minh rằng ông đã đúng.
Tháng 11 năm 1923, Golubev tới Bắc Ninh để khai quật các khu mộ người Trung Quốc thời Đông Hán (25-220 sau Công nguyên) và thời kỳ Nam Bắc triều (386-589). Bằng cách xác định các ví dụ điển hình của người Hán, Tấn và Tống về gốm sứ, công cụ kim loại và đồ trang trí, nhà khoa học thu thập được nhiều tài liệu cho thấy sự hiện diện của các đồ vật địa phương, thuần túy Việt Nam và sự tồn tại của nghệ thuật Việt Nam.
Chẳng hạn, trong quá trình khai quật ở Tây Đô, ông đã phát hiện ra, ngoài bát đĩa Trung Quốc, còn có đồ gốm được sản xuất tại địa phương. Loại đồ gốm này có tính đặc trưng bởi hình vẽ bằng men nâu và trắng, hoàn toàn không điển hình đối với đồ gốm nhà Tống Trung Quốc, chủ yếu với chủ đề địa phương. Hình dáng của những chiếc lọ sành cũng thuần Việt – bình tròn có nắp. Kinh nghiệm tích lũy trong các cuộc khai quật này sau đó đã giúp Viktor Golubev nhiều lần bảo vệ quan điểm của mình về tính chất độc đáo của Thời đại đồ đồng Việt Nam.
Bí ẩn về trống đồng đã được giải đáp
Năm 1925, Victor Golubev nhìn thấy ở chợ Thanh Hóa một đồ vật bằng đồng có nguồn gốc cổ xưa và cách chế tác rất độc đáo. Hỏi người bán, ông được biết rằng vật đó được tìm thấy ở gần làng Đông Sơn. Trở về Hà Nội, Golubev đề nghị với ban giám đốc viện Viễn Đông Bác cổ tiến hành công việc khảo cổ nghiêm túc ở Đông Sơn. Uy tín lớn của nhà khoa học Nga khiến cho công việc khai quật được bắt đầu không chậm trễ. Trong nhiều năm khai quật, 489 hiện vật khác nhau đã được phát hiện, trong đó có vài chục chiếc trống đồng lớn. Phân tích hóa học trống đồng cho thấy hàm lượng thiếc cao, khác với đồng Trung Quốc.
Golubev là người đầu tiên so sánh dữ liệu từ các cuộc khai quật ở Đông Sơn với những đồ trang trí bí ẩn trước đây trên "trống cầu mưa", được lưu giữ tại Bảo tàng viện Viễn Đông Bác cổ. Ông phát hiện ra sự giống nhau của nhiều hình ảnh và từ đó xác lập nguồn gốc trống đồng Đông Sơn. Nghiên cứu hình ảnh trên trống, nhà khoa học Nga đi đến kết luận rằng cầu mưa không phải là chức năng chính của chúng. Các cảnh và bố cục được mô tả trên trống đồng phản ánh các nghi lễ thờ cúng tổ tiên và hồn chim lạc. Và chính những chiếc trống đã dùng để triệu hồi những linh hồn này.
Văn hóa lịch sử mới ở Việt Nam
Năm 1930, Golubev công bố bản báo cáo chứng minh một cách khoa học sự tồn tại trên lãnh thổ Việt Nam một nền văn hóa lịch sử đặc biệt mà ông gọi là văn hóa Đông Sơn. Nhà khoa học đã xác định thời điểm xuất hiện của nó là khoảng 3000 năm trước, khu vực phân bố chính là châu thổ sông Hồng và sông Mã. Victor Golubev cũng phát hiện ảnh hưởng của văn hóa Đông Sơn đối với các vùng xung quanh.
Ông ghi nhận dấu vết của ảnh hưởng này ở miền Nam Trung Quốc, Nhật Bản, Indonesia và các đảo thuộc Châu Đại Dương. Là người ủng hộ giả thiết các mối liên hệ văn hóa rộng rãi trong thời cổ đại, Golubev không ngừng nhấn mạnh nguồn gốc Việt Nam của văn hóa Đông Sơn. Ông bác bỏ một cách dứt khoát quan điểm khoa học thịnh hành bấy giờ cho rằng các sản phẩm kim loại chỉ xuất hiện ở Việt Nam sau cuộc chinh phục của nhà Hán, cùng với các thuộc tính khác của nền văn minh Trung Quốc.
Nhân tiện nói thêm, kết luận này của nhà khoa học Nga được lấy từ truyền thuyết Mường cổ xưa, cho rằng những chiếc trống đẹp nhất vẫn thuộc về các nhà cai trị địa phương, còn những chiếc trống xấu hơn mới được mang đi bán cho các vùng khác.
Trong giới khoa học, phát hiện của Viktor Golubev nhận được sự đánh giá cao, là "bước ngoặt trong nghiên cứu khảo cổ và dân tộc học không chỉ ở Đông Dương mà còn ở Indonesia và Châu Đại Dương". Kết quả khai quật của các nhà khảo cổ học Việt Nam vào cuối những năm 1990 đã khẳng định tính đúng đắn của lý thuyết Văn hóa Đông Sơn được đề xuất lần đầu tiên bởi nhà khoa học Nga Viktor Golubev, người sống và làm việc tại Việt Nam những năm 1920-1945.
Câu chuyện về Viktor Golubev và bí mật kho lưu trữ của ông sẽ được chúng tôi đề cập trong bài viết tiếp theo của loạt bài "Những trang lịch sử".