Việt Nam đã thể hiện chính sách đối ngoại linh hoạt mà ít quốc gia khác có thể tự hào khi đón tiếp Tổng thống Mỹ Joe Biden, Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình và gần đây nhất là Tổng thống Nga Vladimir Putin trong vòng 9 tháng. Xét rằng điều này xảy ra vào thời điểm sự phân cực địa chính trị ngày càng gia tăng và sự cạnh tranh mới giữa các cường quốc trong hệ thống quốc tế, hiệu quả của Việt Nam về chính sách đối ngoại rất ấn tượng.
Tác giả Chietigj Bajpaee so sánh quan hệ của Ấn Độ với Trung Quốc, Nga và Mỹ.
Căng thẳng Ấn Độ-Trung Quốc đã trở thành hiện tượng bình thường mới sau các cuộc đụng độ biên giới vào năm 2020. Điều này chấm dứt những nỗ lực hạn chế nhằm ổn định quan hệ song phương diễn ra trong một loạt hội nghị thượng đỉnh không chính thức giữa ông Tập Cận Bình và Thủ tướng Narendra Modi vào năm 2018 và 2019. Những cuộc trao đổi gần đây của Modi trên mạng xã hội X, trước đây là Twitter, với Tổng thống Đài Loan Lại Thanh Đức và cuộc gặp với phái đoàn quốc hội Hoa Kỳ sau cuộc gặp với Đức Đạt Lai Lạt Ma cũng làm dấy lên nghi ngờ về việc liệu quan hệ Trung-Ấn có được cải thiện dưới nhiệm kỳ thứ ba của chính phủ Modi hay không.
Về quan hệ Ấn-Nga, mặc dù quan hệ giữa Nga và phương Tây đang xấu đi, New Delhi vẫn cố gắng duy trì mối quan hệ thân mật với Moskva, bằng chứng là có thông tin cho rằng chuyến thăm cấp nhà nước đầu tiên của ông Modi trong nhiệm kỳ thứ 3 sẽ là Nga. Tuy nhiên, rõ ràng tương tác giữa hai nước đang giảm sút có kiểm soát. Hai ông Putin và Modi đã không tổ chức hội nghị thượng đỉnh thường niên kể từ tháng 2 năm 2022. Vai trò chủ tịch tương đối kín đáo của Ấn Độ trong Tổ chức Hợp tác Thượng Hải (SCO) vào năm ngoái và ông Modi vắng mặt tại hội nghị thượng đỉnh SCO năm nay ở Astana cho thấy New Delhi đang ngày càng rời xa các diễn đàn nơi Nga (và Trung Quốc) đóng vai trò nổi bật. Điều này xảy ra khi Ấn Độ đang tìm cách đưa ra một lập trường khả quan hơn, không thân phương Tây cũng không chống phương Tây, khiến nước này đối lập với lập trường thù địch của Moskva đối với phương Tây.
Trong khi đó, quan hệ Ấn Độ-Mỹ chỉ phát triển mạnh mẽ hơn trong ba thập kỷ qua. Điều này được nhấn mạnh trong chuyến thăm New Delhi gần đây của Cố vấn An ninh Quốc gia Mỹ Jake Sullivan, nơi cả hai bên cam kết tăng cường hợp tác sâu sắc hơn trong một số lĩnh vực quan trọng chiến lược. Có sự đồng thuận cao của lưỡng đảng ở Washington trong việc coi Ấn Độ là đối tác chiến lược lâu dài (cũng cao như việc coi Trung Quốc là đối thủ chiến lược lâu dài), và kết quả cuộc bầu cử Mỹ vào tháng 11 sẽ không thay đổi điều đó.
Tuy nhiên, cũng có những dấu hiệu căng thẳng trong quan hệ song phương. Biden đã từ chối lời mời tham gia cuộc diễu hành Ngày Cộng hòa của Ấn Độ vào tháng 1, sau đó là hội nghị thượng đỉnh ở New Delhi với các nhà lãnh đạo của Bộ tứ, bao gồm Úc, Ấn Độ, Nhật Bản và Mỹ. Điều này xảy ra khi những căng thẳng tiềm ẩn đã xuất hiện trong quan hệ song phương về những cáo buộc Ấn Độ đồng lõa trong âm mưu giết hại công dân Mỹ và Canada trên quê hương của họ. Vấn đề gần đây đã được khơi dậy với việc dẫn độ từ Cộng hòa Séc một công dân Ấn Độ bị cáo buộc là thủ phạm của âm mưu giết người Mỹ.
Sự so sánh giữa Việt Nam và Ấn Độ thậm chí còn phù hợp hơn khi cả hai nước đều phải đối mặt với những thách thức chiến lược tương tự: Nga là đối tác quốc phòng quan trọng của họ, Mỹ là đối tác chiến lược quan trọng (nhưng không phải đồng minh) và Trung Quốc là đối tác thương mại quan trọng mà cả hai nước đều có tranh chấp lãnh thổ đang diễn ra và chưa được giải quyết. Chính phủ Modi định vị Ấn Độ là "vishwamitra" (bạn của thế giới), nhưng hành động của Việt Nam thể hiện việc thực hiện nguyên tắc này hiệu quả hơn.
Người hưởng lợi thực sự từ "China Plus One"
Song song với việc Việt Nam vượt qua Ấn Độ về không gian địa chính trị, Việt Nam cũng đang làm điều tương tự trên lĩnh vực địa kinh tế. Điều này đã trở nên rõ ràng trong cuộc tranh luận về việc đa dạng hóa chuỗi cung ứng ngoài Trung Quốc, trong đó Việt Nam nổi lên là nước hưởng lợi đáng kể hơn Ấn Độ. Xuất khẩu của Ấn Độ bằng gần 3/4 của Việt Nam, trong khi dòng vốn đầu tư nước ngoài đổ vào Việt Nam năm 2023 cao hơn gần 30% so với dòng vốn vào Ấn Độ. Điều này càng ấn tượng hơn khi dân số Việt Nam chỉ bằng 1/14 dân số Ấn Độ.
Chính phủ Modi đã nỗ lực phối hợp để biến Ấn Độ thành điểm đến đầu tư hấp dẫn hơn bằng cách cải thiện cơ sở hạ tầng vật chất và kỹ thuật số của đất nước, cũng như đưa ra các chính sách như “Make in India” và các ưu đãi liên quan đến sản xuất để thu hút đầu tư vào các lĩnh vực chiến lược. Tuy nhiên, tỷ trọng của ngành sản xuất trong GDP đã chững lại ở mức khoảng 17%, trong khi ở Việt Nam, tỷ trọng này chiếm gần 1/4 GDP.
Ẩn dưới thực tế này là một số vấn đề cơ cấu tiếp tục gây khó khăn cho nền kinh tế Ấn Độ, trong đó nổi bật nhất là năng suất lao động thấp. Ấn Độ không thiếu vốn nhân lực nhưng chất lượng vẫn là vấn đề then chốt. Hơn 40% lực lượng lao động của Ấn Độ vẫn như trước, làm việc trong lĩnh vực nông nghiệp, ngành này chỉ đóng góp 15% vào GDP của đất nước. Chỉ 1/3 phụ nữ tham gia vào cuộc sống lao động ở Ấn Độ, so với gần 70% ở Việt Nam. Tình trạng thiếu hụt kỹ năng đã dẫn đến tỷ lệ thất nghiệp ở thanh niên cao và bất bình đẳng xã hội, điều này phần nào giải thích cho thành tích kém hơn mong đợi của đảng BJP cầm quyền trong các cuộc bầu cử gần đây ở Ấn Độ.
Vai trò trung tâm của Việt Nam trong chuỗi cung ứng toàn cầu được thể hiện qua việc Việt Nam tham gia vào hai sáng kiến thương mại đa phương quan trọng của châu Á là Hiệp định Đối tác Kinh tế Toàn diện Khu vực (RCEP) và Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP), cũng như một số hiệp định song phương, từ Liên minh Châu Âu đến Vương quốc Anh .
Trong khi đó, chủ nghĩa bảo hộ vẫn bám rễ cố thủ ở Ấn Độ: nước này không phải là thành viên CPTPP, rút khỏi RCEP vào năm 2019 và đàm phán FTA với EU từ năm 2007 và với Anh từ năm 2022. Ấn Độ cũng đã chấm dứt hầu hết các hiệp định đầu tư song phương (BIT), dẫn đến dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài giảm và đe dọa xem xét lại các hiệp định thương mại hiện có với các quốc gia mà nước này tiếp tục mất cân bằng thương mại. Mức thuế trung bình có trọng số ở Ấn Độ gần như cao gấp đôi ở Việt Nam.
Từ lý thuyết đến thực hành
Những điều nêu trên không làm giảm đi tiềm năng của Ấn Độ do quy mô nền kinh tế và lợi tức dân số của nước này. Là nền kinh tế lớn tăng trưởng nhanh nhất thế giới và dự kiến trở thành nền kinh tế lớn thứ ba thế giới vào cuối thập kỷ này, Ấn Độ được coi là động lực tăng trưởng toàn cầu. Trong tuyên ngôn bầu cử của mình, BJP hứa sẽ biến Ấn Độ thành một "trung tâm sản xuất toàn cầu mạnh mẽ" như một phần của mục tiêu rộng lớn hơn là "Vikshit Bharat "(Ấn Độ phát triển) vào năm 2047.
Kết quả bất ngờ của cuộc bầu cử Ấn Độ gần đây cũng khẳng định vị thế của nước này là nền dân chủ lớn nhất thế giới. Vào thời điểm người ta ngày càng chú trọng đến việc cùng định vị các chuỗi cung ứng một cách thân thiện bằng cách hợp tác với những người “có cùng chí hướng” và “các khu vực địa lý vững mạnh”, thì nền dân chủ chưa hoàn thiệnnhưng vẫn vượt trội của Ấn Độ đã vượt qua Việt Nam và Trung Quốc độc đảng. So với nền dân chủ năng động (nhưng cũng mong manh) của Ấn Độ, những sách lược chưa rõ ràng của chính trị Việt Nam khiến người ta lo lắng, nếu tính đến việc thay 4 nhân vật cấp cao chỉ trong vòng 18 tháng.
Tuy nhiên, ngay cả tiềm năng cao nhất cũng không phải lúc nào cũng tự động hiển lộ trong đời sống. Đây không phải là lần đầu tiên thế giới nhận thấy Ấn Độ sắp nổi lên như một cường quốc toàn cầu. Khi Ấn Độ bắt đầu cải cách tự do hóa kinh tế vào năm 1991, nước này được cho là đang trên đà bắt kịp Trung Quốc, nhưng GDP của Ấn Độ hiện chỉ bằng 1/5 so với Trung Quốc. Vào giữa những năm 2000, việc ký kết thỏa thuận hạt nhân Mỹ-Ấn, cũng như tốc độ tăng trưởng gần gấp đôi của nước này, cũng làm dấy lên suy đoán rằng thời hoàng kim của Ấn Độ đã đến. Kết quả của cuộc bầu cử Ấn Độ gần đây lặp lại những gì đã xảy ra trong cuộc bầu cử năm 2004, khi chính phủ BJP của Thủ tướng Atal Bihari Vajpayee phải chịu thất bại nặng nề sau khi vận động tranh cử với khẩu hiệu "Ấn Độ tỏa sáng".
Sự kiêu ngạo đã ăn sâu vào Ấn Độ, thể hiện qua khẩu hiệu “Mẹ của Dân chủ” và chức chủ tịch G-20 năm ngoái, được coi là sự nổi lên của đất nước trên trường thế giới. Tuy nhiên, những thành tựu địa kinh tế và địa chính trị gần đây của Việt Nam cho thấy Ấn Độ vẫn chưa phát huy hết tiềm năng của “Amrit Kaal” (hay thời kỳ hoàng kim).