Nhiều chuyên gia khẳng định, với thế và lực hiện nay của Việt Nam, hoàn toàn đủ sức đầu tư dự án mang tầm chiến lược này.
Để chuẩn bị cho siêu dự án này, Việt Nam đã tích cực nghiên cứu kinh nghiệm, tham khảo mô hình từ 22 quốc gia và vùng lãnh thổ, tổ chức học tập kinh nghiệm tại 6 nước sở hữu và làm chủ công nghệ đường sắt tốc độ cao.
Cân nhắc kỹ lưỡng
Theo nghiên cứu của Bộ GTVT, dù phương án 350km/h có chi phí cao hơn - khoảng 8-9% so với phương án 250km/h - nhưng hiệu quả kinh tế lại được dự báo là cao hơn. Tỷ suất nội hoàn kinh tế cho tuyến 350km/h ước tính đạt 12,15%.
Hơn nữa, nếu đầu tư với tốc độ 250km/h, việc nâng cấp lên tốc độ 350km/h là khó khả thi và không hiệu quả.
Báo cáo tại cuộc họp hôm qua (ngày 5/10) với Thủ tướng Phạm Minh Chính, Bộ GTVT cho hay, dự kiến, cho tuyến đường sắt tốc độ cao Bắc - Nam sẽ dài 1.541 km, quy mô đường đôi, khổ 1.435 mm, điện khí hóa, hạ tầng thiết kế với tốc độ 350 km/h, bố trí 23 ga hành khách với cự ly trung bình khoảng 67 km, 5 ga hàng gắn với các đầu mối hàng hóa. Tuyến sẽ bắt đầu từ ga Ngọc Hồi (Hà Nội), đi qua 20 tỉnh, thành phố và kết thúc tại ga Thủ Thiêm (TP.HCM).
Để hiện thực hoá “ăn sáng Hà Nội, ăn tối Sài Gòn”, Việt Nam sẽ cần khoảng trên 67,34 tỷ USD.
Về kế hoạch xây dựng, tới đây, sẽ trình Quốc hội thông qua chủ trương đầu tư tại kỳ họp tháng 10/2024 này, rồi tổ chức đấu thầu lựa chọn tư vấn quốc tế, triển khai khảo sát, lập báo cáo nghiên cứu tiền khả thi trong năm 2025-2026; triển khai giải phóng mặt bằng, đấu thầu lựa chọn nhà thầu và khởi công các dự án thành phần đoạn Hà Nội - Vinh và Nha Trang - TP.HCM cuối năm 2027; khởi công các dự án thành phần đoạn Vinh - Nha Trang năm 2028-2029 và phấn đấu hoàn thành đầu tư toàn tuyến năm 2035.
Ông Vũ Hồng Phương, Giám đốc Ban quản lý dự án đường sắt thuộc Bộ Giao thông vận tải (GTVT) tin rằng, thời cơ đến rồi, điều kiện đến rồi và đây là sự quyết tâm rất lớn để hiện thực hoá dự án vô cùng cấp thiết trong phát triển cơ sở hạ tầng hiện đại.
Về tiềm lực, hiện GDP của Việt Nam đã tăng gấp ba lần kể so với thời điểm dự án lần đầu được trình lên Quốc hội xem xét, nợ công được kiểm soát. Theo chuyên gia phân tích trên tạp chí Nhà Quản trị, vốn đầu tư hơn 67 tỷ USD để hoàn thành tuyến đường sắt này vào năm 2035 được tài trợ qua vốn ngân sách hàng năm, tiền thuế đất, khai thác tối ưu giá thị thương mại của TOD và các khu đất dọc hành lang đường sắt.
Bộ GTVT đã đề ra kế hoạch phân bổ chi phí đầu tư qua từng giai đoạn, với mức đầu tư hàng năm từ năm 2026 đến 2030 khoảng 5,6 tỷ USD, chiếm khoảng 16,2% tổng vốn đầu tư công trung hạn trong giai đoạn này.
“Những tính toán này đều được đảm bảo sao cho các chỉ số nợ công, nợ nước ngoài không vượt ngưỡng an toàn”, - chuyên gia nói.
Thế và lực đã khác
Ông Nguyễn Văn Phúc - nguyên Phó Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế của Quốc hội khoá XIV, thành viên Tổ chuyên gia của Ban Chỉ đạo xây dựng nói trên báo Lao Động rằng, nguồn lực thực hiện dự án đường sắt cao tốc Bắc - Nam là vấn đề người dân cũng như các đại biểu Quốc hội rất quan tâm.
Từ khoảng 14 năm trước - năm 2010, các đại biểu Quốc hội khoá 12 đã đặt ra vấn đề nguồn lực nếu triển khai dự án đường sắt cao tốc.
Thời điểm đó, tổng mức đầu tư dự án được tính toán là là 56 tỷ USD trong khi bối cảnh năm 2010 - 2011 nền kinh tế Việt Nam rất khó khăn. An toàn nợ công và bội chi. Đây chính là một trong những lý do khiến Quốc hội đi đến quyết định chưa thông qua thời điểm đó.
“Thế nhưng hiện nay, tiềm lực của chúng ta đã khác”, - ông nhấn mạnh.
Điển hình, như Bộ GTVT, Nhật Bản đã quyết định đầu tư đường sắt cao tốc từ năm 1950 khi GDP tính theo đầu người mới đạt khoảng 250 USD.
Trung Quốc đầu tư năm 2005 khi GDP đầu người đạt 1.753 USD. Uzbekistan đầu tư năm 2011, khi GDP đầu người đạt 1.926 USD. Indonesia đầu tư năm 2015 khi GDP đầu người khoảng 3.322 USD.
Ngân hàng Thế giới cũng đánh giá, đây là thời điểm thích hợp để xây dựng tuyến đường sắt cao tốc khi GDP bình quân đầu người năm 2023 đạt khoảng 4.282 USD và ước đạt khoảng 7.500 USD vào năm 2030.
Quy mô nền kinh tế năm 2023 khoảng 430 tỷ USD, gấp gần 3 lần so với năm 2010, nợ công xuống ở mức thấp, chỉ khoảng 37% GDP.
Dự kiến thời điểm triển khai xây dựng đường sắt cao tốc vào năm 2027, quy mô nền kinh tế sẽ lên đến khoảng 564 tỷ USD nên nguồn lực để đầu tư không còn là trở ngại lớn.
Theo kế hoạch đến hiện nay, Việt Nam sẽ bố trí vốn trong khoảng 12 năm, mỗi năm bình quân khoảng 5,6 tỷ USD, tương đương khoảng 16,2% trong giai đoạn 2026 - 2030 nếu giữ nguyên tỷ lệ đầu tư công trung hạn như hiện nay.
Bộ Giao thông Vận tải khẳng định, thế và lực của Việt Nam đã từng bước lớn mạnh; khu vực kinh tế tư nhân phát triển nhanh, ngày càng đóng vai trò quan trọng, một số doanh nghiệp có khả năng tham gia chuỗi giá trị toàn cầu, tiếp nhận, nội địa hóa và từng bước làm chủ công nghệ.
Nhiều công trình hạ tầng giao thông quan trọng, quy mô lớn được hình thành, đẩy mạnh liên kết vùng, tăng cường kết nối với khu vực và thế giới.
Tiến trình toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế, tạo điều kiện cho các quốc gia khai thác nguồn lực bên ngoài (vốn, công nghệ, nhân lực).
Kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn, phát triển bền vững đang là ưu tiên hàng đầu được nhiều quốc gia lựa chọn. Đây là cơ hội để các quốc gia đang phát triển có thể “đi tắt, đón đầu” đi thẳng vào hiện đại.
Huy động mọi nguồn lực
Chính phủ cũng yêu cầu Bộ GTVT nghiên cứu đề xuất phương án đầu tư tuyến đường sắt tốc độ cao trục Bắc - Nam với hướng tuyến “thẳng nhất có thể”, tránh các khu dân cư lớn để vừa không phải giải phóng mặt bằng nhiều, vừa tiết kiệm kinh phí, vừa triển khai nhanh, vừa tạo không gian phát triển mới.
Đồng thời, quy hoạch, bố trí các ga và xây dựng các ga phù hợp, theo hướng hiện đại, tầm nhìn xa, nhưng tránh lãng phí, phát huy công năng, phục vụ phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo an ninh, quốc phòng các địa phương và cả khu vực.
Tuyến đường sắt này phải được xây dựng phù hợp với quy hoạch quốc gia, quy hoạch ngành, đảm bảo tính kết nối với các hạ tầng, phương thức giao thông khác, như hàng không, hàng hải; có khả năng kết nối các hành lang kinh tế trong nước và kết nối với các nước trong khu vực như Trung Quốc, Lào, Campuchia…
Cùng với đó, phải rà soát lại suất đầu tư, sơ bộ tổng mức đầu tư đảm bảo chính xác nhất có thể; rà soát và đề xuất các cơ chế đặc thù, đặc biệt cho triển khai dự án, nhất là về huy động nguồn lực và quy trình thủ tục, các chính sách đặc thù, linh hoạt về đất đai, giải phóng mặt bằng, vật liệu xây dựng… với phương châm cơ chế thông thoáng, thủ tục rút gọn, thi công rút ngắn.
Về nguồn lực, phải đề xuất cơ chế huy động, đa dạng hoá các nguồn lực, gồm nguồn lực đầu tư công của Trung ương, địa phương, nguồn lực từ vốn vay, phát hành trái phiếu và các nguồn lực hợp pháp khác - nhất là trong xây dựng, vận hành nhà ga…
Cùng với nguồn lực tài chính, cần huy động cả hệ thống chính trị vào cuộc, huy động sức mạnh của nhân dân và doanh nghiệp, huy động tổng lực nguồn nhân lực, phương tiện của đất nước phục vụ dự án.
Bộ Tài chính cũng đánh giá, đây là dự án rất lớn, đòi hỏi nguồn vốn lớn, việc ngân sách nhà nước tham gia vào dự án này chắc chắn sẽ tác động đến nợ công, cơ cấu nợ công của chúng ta trong thời gian sắp tới.
"Với trách nhiệm được giao, chúng tôi sẽ bàn bạc và lên các phương án khác nhau, để đảm bảo hai mục tiêu đồng thời. Thứ nhất, an toàn nợ công, an toàn tài chính quốc gia. Thứ hai, có phương án vốn khả thi để đáp ứng yêu cầu xây dựng dự án”, - Thứ trưởng Bộ Tài chính Nguyễn Đức Chi phát biểu gần đây.
Bộ Tài chính cũng sẽ làm việc với các cơ quan có liên quan để báo cáo Chính phủ. Khi được Quốc hội phê chuẩn chủ trương đầu tư sẽ có số liệu cụ thể về nguồn vốn, phân kỳ đầu tư; tổng thể cùng với các dự án quan trọng khác và kế hoạch đầu tư công trung hạn, từ đó, sẽ đánh giá tác động lên nợ công và an toàn tài chính quốc gia.