Những trang sử vàng

Năm 1979: “Lá chắn thép” của Hải quân Liên Xô tại Việt Nam

Bài mạn đàm trước trong loạt bài “Những trang sử vàng” đã nói về sự hỗ trợ và giúp đỡ về mặt quân sự-chính trị mà Matxcơva trung thành với Hiệp ước hữu nghị và hợp tác Liên Xô - Việt Nam đi vào hiệu lực hai tháng trước đó đã dành cho Việt Nam trong việc đẩy lùi quân xâm lược Trung Quốc vào tháng 2-tháng 3 năm 1979.
Sputnik
Thủy thủ hải quân Liên Xô cũng tham gia tích cực vào việc cung cấp sự hỗ trợ này.

Thủy thủ Liên Xô tham gia bảo vệ Việt Nam

Vào đầu tháng 2 năm 1979, sau khi nhận được các thông tin đầu tiên về ý định tấn công Việt Nam của Trung Quốc, các tàu ngầm Liên Xô bắt đầu được triển khai ở khu vực Đông Nam Á. Fyodor Gnatusin, chỉ huy tàu ngầm B-88 của Hạm đội Thái Bình Dương, nhớ lại:
"Vào đầu năm 1979, chúng tôi đang rảnh rỗi - tàu đang tu sửa định kỳ trong nhà máy. Nhưng, ngay sau khi Trung Quốc xâm lược Việt Nam, người ta rút chúng tôi ra khỏi nhà máy để ra khơi. Nhanh chóng nhận nhiệm vụ, bốc xếp vũ khí thủy lôi và ngư lôi, thêm một tuần nữa - bốc xếp và lèn chặt cứng các khoang tàu hàng tấn thực phẩm, thiết bị cho các trinh sát viên biệt phái ... Chúng tôi đã đi vào chiến tranh. Tại các cảng Vladivostok và Nakhodka ở Viễn Đông cũng có các đoàn tàu chất hàng viện trợ quân sự giúp đỡ cho Việt Nam”.
Một số tàu của Hạm đội Thái Bình Dương đã trực chiến tại các khu vực trọng điểm ở Biển Hoa Đông và Biển Đông vào thời điểm cuộc chiến tranh nổ ra. Vào tháng 6 năm 1978, sau những sự cố ở biên giới Việt Nam - Trung Quốc, một lực lượng gồm hai tàu tuần dương và hai tàu khu trục của Liên Xô đã tiến hành tập trận ở vùng biển giữa Đài Loan và Philippines. Vào tháng 1-tháng 2 năm 1979, tàu tuần dương và tàu khu trục xô viết đã có mặt ở Biển Đông để biểu thị sự ủng hộ của Liên Xô đối với Việt Nam, sau khi có thông tin rằng Trung Quốc chuẩn bị "trừng phạt" người Việt Nam. Sau khi chiến tranh nổ ra đã có thêm những tàu khác đến tham gia, hình thành một đơn vị lớn. Vào ngày 20 tháng Hai, hải đoàn gồm có 13 tàu chiến xô viết đã chờ đợi một nhóm tàu mới do tuần dương hạm "Admiral Senyavin" dẫn đầu. Trong tháng Ba, hải đoàn có đến 30 tàu các loại. Tổng cộng, khoảng 50 tàu chiến Liên Xô, bao gồm ít nhất 6 tàu ngầm, đã được triển khai trong thời gian cuộc chiến tranh bảo vệ biên giới phía Bắc.
Những trang sử vàng
Các chuyên gia Liên Xô kề vai sát cánh trong các trận đánh cùng với bộ đội tên lửa Việt Nam
Trung tá hải quân Vladimir Glukhov, nhà thủy văn học của Hải quân Liên Xô nhớ lại:
"Tôi đang là tham mưu trưởng tiểu đoàn và người ta bổ nhiệm tôi làm sĩ quan cấp cao cho chuyến đi của các con tàu chúng tôi đến Việt Nam. Chúng tôi đã chuẩn bị cho chuyến hành quân này trong một ngày, và sau 5 ngày chúng tôi đã vào cảng Đà Nẵng. Nhiệm vụ của chúng tôi như sau - khẩn trương làm công tác đảm bảo cho các tàu chiến Liên Xô đến các cảng Việt Nam. Đo độ sâu, luồng vào, dòng chảy và các việc khác. Chúng tôi khảo sát cả các cầu tàu hiện có. Và sau đó chúng tôi vào vịnh Cam Ranh, nơi đang xây dựng căn cứ hải quân xô viết. Chúng tôi gấp rút làm việc, chờ đợi biên đội tàu chiến của Hạm đội Thái Bình Dương đến”.
Đội tàu chiến Liên Xô đã hiện diện ở Biển Đông cho đến tháng 4 năm 1979. Kết quả là Hạm đội Nam Hải gồm 300 tàu chuến của Trung Quốc đã không tham gia vào cuộc tấn công Việt Nam.

Bảo vệ tuyến hàng hải từ Liên Xô đến Việt Nam

Ngoài ra, các tàu của Liên Xô còn bảo vệ tuyến hàng hải vận chuyển hàng hóa đến cảng Đà Nẵng. Các lô hàng viện trợ quân sự của Liên Xô đều được chuyển đến đó, vì cảng Hải Phòng nằm rất gần tiền tuyến, trong khu vực có thể bị không kích bởi Trung Quốc. Kể từ khi bắt đầu cuộc chiến cho đến cuối tháng 3, phần lớn vũ khí do Liên Xô cung cấp được chuyển đến Việt Nam bằng đường biển. Tổng cộng Liên Xô đã viện trợ 400 xe tăng, xe chiến đấu bộ binh và xe bọc thép chở quân, 400 khẩu pháo và súng cối, 50 hệ thống tên lửa phóng loạt Grad, hơn 100 bệ phóng phòng không, 400 tổ hợp phòng không vác vai và hàng nghìn tên lửa cho chúng, hơn 800 súng phóng lựu chống tăng và 20 máy bay chiến đấu. Toàn bộ khối lượng thiết bị và vũ khí khổng lồ này đã được phân bổ và chuyển giao cho Việt Nam trong gần một tháng. Mọi trang thiết bị đều được cung cấp ở mức sẵn sàng nhất có thể để sử dụng trong chiến đấu. Việc kiểm tra thiết bị quân sự tại Liên Xô được thực hiện bởi các ủy ban nghiêm ngặt nhất; các chuyên gia trực tiếp vận hành thiết bị này và có nhiều kinh nghiệm sử dụng đã tham gia vào quá trình kiểm tra. Nhờ đó, các thiết bị này có thể tham gia chiến đấu ngay sau khi bốc dỡ container từ tàu vận tải. Các chuyên gia Liên Xô cũng tham gia dỡ hàng. Đầu năm 1979, một nhóm lớn công nhân bốc vác từ các cảng Vladivostok, Nakhodka, Korsakov và Vanino ở Viễn Đông của Liên Xô đã làm việc tại Việt Nam trong ba tháng. Họ đã bốc dỡ hàng hóa khỏi 26 tàu và vận chuyển hơn 100 nghìn tấn thiết bị và kỹ thuật quân sự.
Những trang sử vàng
Tên lửa Liên Xô xoá tan huyền thoại "bách chiến bách thắng" về B-52 trên bầu trời Việt Nam

Ngăn chặn các tàu chiến Hoa Kỳ

Trong khi đó, các thủy thủ Liên Xô phải đối đầu với đoàn tàu chiến Mỹ do tàu sân bay Constellation dẫn đầu, vốn đã có mặt tại khu vực Đông Nam Á kể từ ngày 6 tháng 12 năm 1978. Vào ngày 25 tháng 2 năm 1979, các tàu Mỹ đã đỗ thành chuỗi ngoài khơi bờ biển Việt Nam, mà theo người Mỹ lúc bấy giờ gọi là "để kiểm soát tình hình". Để ngăn tàu Mỹ không tới được khu vực hoạt động chiến sự, các tàu ngầm Liên Xô đã chặn các ngả đường tiếp cận của tàu Mỹ. Một số tàu ngầm của Liên Xô vẫn ở độ sâu dưới nước, trong khi những tàu khác đã nổi trên mặt nước.
Như vậy, phạm vi nhiệm vụ mà lực lượng hải quân Liên Xô phải giải quyết trong thời gian Trung Quốc xâm lược Việt Nam là khá rộng. Vì lòng dũng cảm và chủ nghĩa anh hùng khi thực hiện nhiệm vụ được giao, 36 thủy thủ của Hạm đội Thái Bình Dương đã được trao tặng giải thưởng nhà nước Liên Xô.
Thảo luận