Vàng trong dân ở Việt Nam hơn 2.000 tấn?

Theo thống kê của Hiệp hội các nhà đầu tư tài chính Việt Nam (VAFI), tổng lượng vàng trong dân có thể lên tới hơn 2.000 tấn.
Sputnik
Trước đó, đại biểu Thạch Phước Bình (đoàn Vĩnh Long) đã đề xuất loạt giải pháp nhằm huy động và tài chính hóa lượng vàng khoảng 500 tấn đang cất giữ trong dân. Theo ông, đây là nguồn vốn quý có thể được đưa vào phục vụ phát triển hạ tầng, chuyển đổi số và đổi mới công nghệ mà không cần phải gia tăng vay nợ công.

VAFI ước tính lượng vàng trong dân tới hơn 2.000 tấn

Theo báo NLĐ, Hiệp hội Kinh doanh vàng Việt Nam (VGTA) từng kiến nghị Ngân hàng Nhà nước nghiên cứu các cơ chế huy động lượng vàng trong dân – vốn vẫn còn rất lớn, ước tính khoảng 500 tấn. Trong nhiều năm qua, Việt Nam chủ yếu nhập khẩu vàng, còn xuất khẩu gần như không đáng kể.
Đáng chú ý, theo thống kê mới nhất của Hiệp hội các nhà đầu tư tài chính Việt Nam (VAFI), tổng lượng vàng dự trữ trong dân thậm chí có thể lên tới hơn 2.000 tấn, tương đương khoảng 300 tỷ USD theo giá hiện tại.
"Đa phần 2.000 tấn vàng này mua xong, được người dân để dưới "gầm giường", không trở lại hệ thống ngân hàng thương mại. Trong khi đó, chính sách miễn thuế với kinh doanh vàng (kinh doanh vàng miếng là chủ yếu) đã làm tăng mạnh tình trạng vàng hóa nền kinh tế", đại diện VAFI cho biết.
USD bị ruồng bỏ, thế giới bất ổn khiến giá vàng sẽ chỉ tăng chứ không giảm
Trước đó, theo Tạp chí Kinh tế Sài Gòn dẫn ước tính của hai tác giả Huỳnh Thế Du - Nguyễn Xuân Thành, cuối năm 2023, có khoảng 2.000 tấn vàng trong nền kinh tế Việt Nam. Trong khi con số nêu lên năm 2012, được nhắc đến nhiều lần là khoảng 500 tấn. Hai tác giả cũng đánh giá vàng chiếm một tỷ trọng vừa phải (có thể nói là tự nhiên và hợp lý) trong danh mục cất giữ tài sản của người dân.
Trong bối cảnh thị trường vàng liên tục biến động phức tạp, VAFI đã gửi văn bản kiến nghị Chính phủ và Quốc hội xem xét áp dụng chính sách thuế mới đối với kinh doanh vàng miếng và vàng trang sức, nhằm góp phần ổn định thị trường.
"VAFI đề nghị kinh doanh vàng trang sức và vàng miếng phải chịu thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ như các hàng hóa thông thường một cách bình đẳng về nghĩa vụ chịu thuế. Kinh doanh vàng miếng và vàng trang sức chịu thuế GTGT 10%", đại diện VAFI kiến nghị.
VAFI cho rằng Việt Nam hiện vẫn miễn thuế cho kinh doanh vàng miếng, trong khi ở nhiều quốc gia, chính sách chống vàng hóa được áp dụng mạnh mẽ nhằm ổn định tỷ giá, bảo vệ đồng nội tệ và khuyến khích dòng vốn nhàn rỗi chảy vào ngân hàng hoặc thị trường chứng khoán. Nhờ vậy, doanh nghiệp, người dân và nền kinh tế các nước đó đều được hưởng lợi từ lãi suất cho vay thấp hơn.
Việt Nam: Vì sao giá vàng liên tục lập đỉnh dù Nhà nước đã “mở van”?
Liên quan đến chênh lệch số liệu về lượng vàng trong dân, một chuyên gia của VGTA cho biết con số 500 tấn vàng được nêu trước đây dựa trên dữ liệu của Hội đồng Vàng thế giới (WGC) cùng với thống kê của cơ quan hải quan về lượng vàng nhập khẩu từ những năm 1990 đến 2023. Tuy nhiên, hiện không có số liệu cụ thể về lượng vàng nhập lậu – nhất là trong các giai đoạn giá vàng trong nước và thế giới chênh lệch cao.

Đại biểu hiến kế huy động 500 tấn vàng trong dân

Trước đó, tại phiên họp Quốc hội ngày 30/10, đại biểu Thạch Phước Bình nhấn mạnh rằng trong giai đoạn bản lề của kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 2026–2030, nhiệm vụ trọng tâm là mở rộng không gian tài khóa, huy động tối đa và sử dụng hiệu quả các nguồn lực ngoài ngân sách Nhà nước.
Đại biểu Quốc hội tỉnh Vĩnh Long Thạch Phước Bình phát biểu
Ông cho rằng có hai nguồn lực lớn chưa được khai thác đúng mức: các quỹ tài chính Nhà nước ngoài ngân sách và lượng vàng, tài sản tích lũy trong dân.
"Cả 2 đều là kho vốn lớn của nền kinh tế, một nằm trong khu vực công, một nằm trong dân, nhưng đều đang thiếu một cơ chế quản lý và huy động đồng bộ, minh bạch, hiệu quả", ông Bình nhận định.
Trích dẫn số liệu của Hội đồng Vàng thế giới, ông cho biết người dân Việt Nam đang nắm giữ khoảng 400–500 tấn vàng, tương đương 35–40 tỷ USD, chiếm gần 8% GDP. Mỗi năm, Việt Nam tiêu thụ trung bình 55 tấn vàng, thuộc nhóm các quốc gia có mức tiêu thụ cao nhất khu vực.
Tuy nhiên, phần lớn lượng vàng này vẫn được cất giữ trong két sắt, chưa được đưa vào lưu thông để trở thành nguồn vốn cho nền kinh tế. Đại biểu cũng chỉ ra rằng trong năm 2024 và đầu năm 2025, có thời điểm chênh lệch giá vàng trong nước và thế giới lên tới 14–20 triệu đồng/lượng, phản ánh tâm lý đầu cơ và sự thiếu minh bạch của thị trường.
“Dù Ngân hàng Nhà nước đã can thiệp đấu thầu vàng miếng, song đây mới là giải pháp ngắn hạn. Nguyên nhân gốc rễ vẫn là thiếu một cơ chế thị trường minh bạch, hiện đại và an toàn cho người dân”, đại biểu đoàn Vĩnh Long cho biết.
Từ thực tế đó, ông Thạch Phước Bình đề xuất năm nhóm giải pháp cụ thể để huy động và tài chính hóa vàng trong dân.
Thứ nhất, cần ổn định thị trường vàng, đưa mức chênh lệch giữa giá trong nước và thế giới về dưới 5 triệu đồng/lượng trong vòng 6–12 tháng; đồng thời kiểm soát hoạt động đầu cơ, cho phép nhập khẩu có kiểm soát để tăng nguồn cung.
Thứ hai, thành lập Sở Giao dịch vàng quốc gia – một bước đột phá thể chế giúp người dân gửi vàng vật chất vào kho lưu ký chuẩn hóa, nhận chứng chỉ điện tử để giao dịch, cầm cố hoặc quy đổi. Qua đó, Nhà nước có thể quản lý dòng vàng thật mà vẫn đảm bảo quyền sở hữu của người dân.
Thứ ba, phát triển các sản phẩm tài chính hóa vàng như chứng chỉ vàng lưu ký, quỹ đầu tư vàng hoặc trái phiếu vàng được bảo chứng bằng vàng vật chất. Người dân có thể đầu tư hoặc góp vốn bằng vàng hay bằng VNĐ, hưởng lợi nhuận theo biến động giá vàng, giúp biến vốn tĩnh thành vốn động.
Biến động giá vàng Việt Nam đang rất giống Trung Quốc
Thứ tư, khuyến khích chuyển hóa vàng sang VNĐ thông qua miễn phí lưu ký, ưu đãi lãi suất hoặc phát hành trái phiếu Chính phủ bằng vàng dành riêng cho người bán vàng vật chất.
Thứ năm, đảm bảo an toàn hệ thống và minh bạch thông tin: nghiêm cấm các ngân hàng huy động hoặc cho vay bằng vàng, đồng thời công bố bản tin vàng quốc gia định kỳ để người dân tiếp cận thông tin chính xác, củng cố niềm tin vào thị trường.
Đại biểu Bình cho rằng, nếu chỉ 10–15% lượng vàng trong dân được đưa vào hệ thống tài chính – tương đương khoảng 5–7 tỷ USD – thì đây sẽ là nguồn lực quan trọng để phát triển hạ tầng, thúc đẩy chuyển đổi số và đổi mới công nghệ mà không cần tăng nợ công.
Tuy nhiên, ông Bình cũng lưu ý, muốn huy động được nguồn vốn trong dân, Nhà nước trước hết phải quản lý minh bạch, hiệu quả nguồn lực công, và quan trọng hơn, phải tạo dựng được niềm tin rằng nguồn vốn của người dân sẽ được sử dụng một cách an toàn và mang lại lợi ích thiết thực cho đất nước.
Thảo luận