Những bài học thiết thực và quý giá trong việc tổ chức thực thi trọng trách bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của quốc gia trong Biển Đông:
1. Cần nâng cao và nắm vững kiến thức về luật pháp quốc tế, nhất là Công ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển năm 1982, để phân biệt bản chất của những khái niệm pháp lý trong khi xử lý các công việc có liên quan đến các quyền và lợi ích hợp pháp trên biển của quốc gia mình.
Chẳng hạn, khái niệm "đồng sở hữu", "cùng thăm dò, khai thác"… là những khái niệm dễ bị đánh đồng để che đậy những động cơ chính trị thực dụng, tiêu cực.
2. Cần thận trọng trong từng lời nói, tuyên bố, hành xử liên quan đến các quyền và lợi ích chính đáng của quốc gia, tránh những phát ngôn ngẫu hứng gây hậu quả pháp lý bất lợi cho cuộc đấu tranh bảo vệ các quyền và lợi ích chính đáng của quốc gia.
3. Muốn tránh được những phát biểu "hớ hênh" đó, nhất thiết phải tận dụng ý kiến tham mưu của các cơ quan chuyên trách và các chuyên gia chuyên ngành có trình độ, tâm huyết và trung thực.
Thứ chín, trong quá trình đàm phán giải quyết các tranh chấp về biên giới, lãnh thổ quốc gia, bảo vệ các quyền và lợi ích chính đáng của quốc gia là mục đích tối thượng.
Nhưng để đạt được mục tiêu đó, các nhà đàm phán cần phải biết vận dụng sách lược một cách linh hoạt và khéo léo, phù hợp với những diễn biến tình hình tranh chấp. Đó là "ứng vạn biến"…
Bài báo đã dẫn nội dung phát biểu của ông Lý Hiển Long rằng: tranh chấp lãnh thổ trên Biển Đông "chỉ có thể quản lý, không thể giải quyết", đồng thời ông kêu gọi các bên tranh chấp cùng khai thác nguồn tài nguyên trên Biển Đông.
Xuất phát từ lợi ích khu vực trong tình hình hiện nay, tuyên bố này xét về phương diện chính trị, ngoại giao là hợp lý.
Đây là những câu hỏi cần phải tìm được câu trả lời thỏa đáng, mới có thể triển khai áp dụng được "giải pháp tạm thời" theo đúng phương châm "ứng vạn biến".
Trước hết, cần phải xác định phạm vi để áp dụng "giải pháp tạm thời" trong Biển Đông:
Công ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển 1982, không có chuyện vùng đặc quyền kinh tế hay vùng thềm lục địa được xác lập hợp pháp, chính đáng, rõ ràng theo quy định của Công ước Luật Biển 1982, lại bị nước khác, do động cơ vụ lợi, nhảy vào, cố tình tạo ra tranh chấp, rồi bắt "cùng khai thác", biến vùng không phải tranh chấp thành vùng tranh chấp, biến không thành có.
Chính vì thế, các Tuyên bố chung Việt Nam — Trung Quốc đề cập tới giải pháp "hợp tác cùng khai thác" áp dụng cho khu vực ở ngoài cửa vịnh Bắc Bộ là khả thi, vì đây là điều rất bình thường, giống như đã được áp dụng tại các vùng chồng lấn giữa Việt Nam và Malaysia; Việt Nam, Thái Lan và Malaysia trong vịnh Thái Lan…
Và, chính trong Tuyên bố về nguyên tắc ứng xử trên Biển Đông (DOC), các bên tham gia cũng đã thỏa thuận giữ nguyên hiện trạng, không mở rộng thêm sự chiếm đóng, không tiến hành các hoạt động làm phức tạp thêm tình hình… cũng đã vận dụng tốt nguyên tắc Status-quo rồi.
Tất nhiên, điều tối quan trọng khi sử dụng giải pháp tạm thời này là cần phải khẳng định rằng chúng không làm ảnh hưởng đến quá trình đàm phán và kết quả cuối cùng, trên tinh thần thượng tôn pháp luật, tôn trọng các quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhau, vì hòa bình, an ninh, hợp tác và phát triển của khu vực và quốc tế.
Tuy vậy, các bên vẫn có quyền (và cần thiết phải) bảo lưu quan điểm về chủ quyền của mình đối với các thực thể địa lý mà mình đã tuyên bố có chủ quyền để phục vụ cho một kênh giải quyết tranh chấp quyền thụ đắc lãnh thổ bằng biện pháp hòa bình đối với các thực thể địa lý này, khi các bên tranh chấp cùng thỏa thuận tổ chức thực hiện theo đúng các thủ tục pháp lý nhất định.
Để đánh giá tính hợp pháp của các vùng biển và thềm lục địa của các quốc gia ven Biển Đông, chúng ta cần phân biệt tiêu chuẩn để xác định phạm vi vùng biển và thềm lục địa ven bờ lục địa và ven bờ quốc gia quần đảo ở xung quanh Biển Đông và phạm vi các vùng biển và thềm lục địa của các quần đảo ở giữa Biển Đông.
Dựa vào những thông tin và phân tích nói trên, phạm vi áp dụng "giải pháp tạm thời" phải là "vùng chồng lấn" được hình thành từ việc các quốc gia ven biển đã vận dụng các quy định của UNCLOS 1982 để xác định các vùng biển và thềm lục địa của mình với tư cách là quốc gia ven biển hay quốc gia quần đảo.
Không chấp nhận áp dụng giải pháp này đối với vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa được xác lập hợp pháp của các quốc gia xung quanh Biển Đông.
Càng không thể áp dụng đối với khu vực quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa của Việt Nam.