Những người đó từng ở trong đội quân tràn qua cửa khẩu Tà Lùng, tìm cách vượt đèo Khau Chỉa để tiến về "làm cỏ" thị xã Cao Bằng.
Bốn mươi năm trước, tại đèo Khau Chỉa, trung đoàn của Hồ Tuấn đã cầm chân một sư đoàn quân Trung Quốc liên tục 12 ngày đêm. Trong số những người Hồ Tuấn chĩa nòng pháo vào, có cả những người hôm nay ngồi trước mặt ông.
"Các ông sang xâm chiếm đất nước chúng tôi, buộc chúng tôi phải cầm súng chiến đấu", ông Tuấn mở đầu câu chuyện. Phía bên kia im lặng. Thời điểm đó, Hồ Tuấn nhận diện họ là kẻ thù đã xâm phạm lãnh thổ, nên buộc phải cầm súng chiến đấu.
Nhưng rồi cuộc trò chuyện của những người từng ở hai đầu chiến tuyến hôm đó chủ yếu xoay quanh cuộc sống giờ thế nào, chế độ đãi ngộ ra sao. Họ không nói nhiều về những trận đánh. Trước lúc rời đi, đoàn người vào nghĩa trang Quảng Uyên thắp hương. Nơi yên nghỉ của 406 liệt sĩ Việt Nam, một nửa trong số đó hy sinh tháng Hai năm 1979. Đoàn cựu binh Trung Quốc xin chụp chung vài tấm ảnh, tặng ông một bao thuốc lá rồi ra về. Thời điểm chấp nhận bắt tay chào tạm biệt, Hồ Tuấn không còn coi họ là kẻ thù.
"Hòa bình rồi, có cầm súng mà gí vào đầu nhau được nữa đâu. Họ cũng đã giải ngũ, trở thành những người dân bình thường như mình", ông Tuấn nói với tôi.
Bà Quyên là một người dân Cao Bằng như thế. Những năm thơ dại, cô bé Quyên nhìn thấy những người láng giềng tốt mỗi lần thấy đoàn xe tải chở gạo, thuốc men, đạn dược qua cửa khẩu Tà Lùng. Lũ trẻ thường nhảy lên reo hò, vỗ tay hoan hô đoàn xe chi viện cho chiến trường miền Nam, để đất nước mau tới ngày thống nhất.
Vài năm sau, cô thiếu nữ tên Quyên nhìn thấy kẻ thù khi bản Bó Tờ bị đốt sạch dưới cơn mưa đạn pháo. Người con nuôi gốc Trung Quốc của người làng dẫn đường cho lính tiến vào. Sau hôm đó, cô đi thẳng lên chốt xin tải đạn giúp bộ đội, dân quân.
Sau cuộc chiến, ông con nuôi mật thám về bên kia sinh sống. Nhưng hai cô con gái của ông ta vẫn ở lại làng, lấy chồng, sinh con. Người trong bản không ai nói gì. Bà Quyên không tiết lộ danh tính của hai cô gái vì "muốn để họ có cuộc sống bình yên". Với bà, họ là người làng. Bà bảo: "Ai làm thì người đó chịu trách nhiệm". Người phụ nữ Nùng phân biệt rõ đâu là người dân vô tội, đâu là những kẻ bá quyền gây ra cuộc chiến.
Bốn mươi năm trước, khi con đường dẫn thẳng từ thôn Nà Sác sang bên kia biên giới còn là đường đất, chưa có cửa khẩu, ông Niêm thi thoảng vẫn sang bên kia đi chợ, uống rượu đám cưới của những người quen. Với ông Niêm, những người bên kia biên giới khi đó là anh em.
Ông Niêm nhận ra "người anh em" đã trở mặt khi thấy những tấm biển "người Việt Nam sang là đánh" dán đầy các cột chợ bên kia biên giới. Ông cùng dân làng bắt đầu đi cắm chông tre, chông sắt, trồng thêm tre quanh nhà, nối tiếp hàng lũy đã mọc lên từ thời đánh Pháp. Biên giới hữu nghị nhiều năm chuyển thành một tuyến phòng thủ.
Ông Niêm nhìn thấy kẻ thù vào cái ngày 17 tháng 2 năm 1979, khi người cha chết vì bị mảnh pháo Trung Quốc văng vào ngực.
Ông Niêm nhìn thấy ruộng nương xanh ngút ngô, thuốc lá của bản Nà Sác đã trở thành chiến trường, khi hơn bốn mươi nóc nhà người Nùng bị pháo thiêu trụi.
Họ hôm qua có thể không phân tích được cục diện Chiến tranh lạnh để biết được nguy cơ chiến tranh, nhưng họ nhận thức được đâu là sự thân thiện, đâu là ác cảm giữa con người với con người.
Họ hôm nay có thể không phát biểu được những câu mang tính nguyên lý như "Trung Quốc hôm nay là đối tác kinh tế", nhưng họ nhận thức được đây là hàng xóm — sống cần kết nối và giao thương.
Những ngày đi trên đường mòn biên giới, dừng chân bên bếp lửa nhà sàn, gặp những người Tày, người Nùng nơi đây, mới thấy nơi máu đổ nhiều nhất, dường như lại là nơi người ta dễ bao dung nhất với những người từng được coi là "kẻ thù".
Cách ứng xử thường ngày của họ, những người bình thường nhất nơi biên cương, dường như mới chính là tầm vóc của đất nước này, hơn bao nhiêu lời tuyên bố.