Luật sư kiến nghị giải mật hồ sơ
Những người này bị khởi tố cùng về tội vi phạm quy định về quản lý, sử dụng tài sản nhà nước gây thất thoát, lãng phí (theo khoản 3 Điều 219 BLHS).
Cụ thể, các luật sư (LS) gửi bốn văn bản đề nghị cung cấp hồ sơ, tài liệu và giải mật tài liệu liên quan đến vụ án trên.
Sau khi xem xét các kiến nghị, Phó Chủ tịch UBND TP Ngô Minh Châu đã chỉ đạo Sở Tư pháp TP chủ trì, phối hợp với Công an TP nghiên cứu các đề nghị của LS, thống nhất tham mưu cho UBND TP xem xét các đề nghị này theo đúng pháp luật về bảo vệ bí mật nhà nước và các quy định pháp luật có liên quan.
Trước đó TAND TP.HCM đã tiếp nhận hồ sơ truy tố từ VKS, đang thụ lý xem xét và chuẩn bị đưa vụ án ra xét xử.
Các LS cho rằng vụ án có nhiều vấn đề chưa được làm rõ nên kiến nghị tòa trả hồ sơ. Trong đó LS nhấn mạnh về kết luận giám định tư pháp sử dụng trong hồ sơ là chưa làm rõ và không đúng sự thật khách quan dẫn đến nội dung của cáo trạng truy tố các bị cáo chưa chính xác, thiếu căn cứ.
Có LS đề nghị tòa xem xét tính pháp lý của các tài liệu, văn bản mật trong vụ án để yêu cầu cơ quan có thẩm quyền giải mật nhằm phục vụ cho quá trình xét xử. Theo LS, tất cả tài liệu, văn bản có trong hồ sơ của vụ án, bao gồm cả các tài liệu mang dấu mật, buộc phải được công khai tại phiên tòa để làm rõ sự thật khách quan của vụ án nhằm làm căn cứ cho HĐXX nhận định và tuyên án.
Sử dụng tài liệu, văn bản mật ra sao?
LS viện dẫn theo Điều 25 BLTTHS 2015 thì “tòa án xét xử công khai, mọi người đều có quyền tham dự, trừ trường hợp do bộ luật này quy định. Trường hợp đặc biệt cần giữ bí mật nhà nước, thuần phong, mỹ tục của dân tộc, bảo vệ người dưới 18 tuổi hoặc để giữ bí mật đời tư theo yêu cầu chính đáng của đương sự thì tòa án có thể xét xử kín nhưng phải tuyên án công khai”.
Như vậy, khi tòa xét xử công khai, các tài liệu, văn bản mật sẽ bị tiết lộ. Người bào chữa có thể sử dụng công khai các tài liệu có trong vụ án mà không vi phạm pháp luật về bảo vệ bí mật nhà nước.
Từ đó LS đề nghị cơ quan xét xử có hướng dẫn cụ thể để thống nhất trong việc sử dụng các tài liệu, văn bản mật (chưa được giải mật) đối với người bào chữa trong quá trình xét xử vụ án để người bào chữa có các hành vi tố tụng hợp pháp tương ứng đối với cả hai hình thức xét xử kín và công khai. Cụ thể, về hình thức, cách thức, phạm vi sử dụng… (như công khai nêu tên văn bản, trích dẫn văn bản tại tòa…).