Tình hình phát sinh liên quan đến dịch coronavirus và đang trầm trọng hơn do sự chậm trễ trong việc mở lại các đường bay giữa Thổ Nhĩ Kỳ và một số quốc gia vốn có lượng khách du lịch tới đất nước trong kỳ nghỉ. Cụ thể, chúng ta đang nói về các quốc gia EU, những nước này vẫn chưa mở biên giới với Thổ Nhĩ Kỳ kể từ ngày 1 tháng 7 như mong đợi.
Thất nghiệp trong ngành du lịch
Theo Bộ Văn hóa và Du lịch, trong năm 2019, số lượng khách du lịch tới Thổ Nhĩ Kỳ đông nhất là từ Nga, sau đó là Đức, Bulgaria, Anh và Iran. Như vậy, trong số năm quốc gia hàng đầu thì có ba nước là châu Âu. Theo ông Budak, nếu sắp tới không có thay đổi theo hướng tích cực thì thất nghiệp trong lĩnh vực du lịch sẽ tiếp tục duy trì ở khu vực 70%, đây là một dấu hiệu của một cuộc khủng hoảng nghiêm trọng.
“Năm 2019, thu nhập ngoại hối trực tiếp của ngành du lịch lên tới 34,5 tỷ đô la, năm nay mục tiêu đề ra là 50 triệu khách du lịch và 40 tỷ đô la, nhưng tất cả chúng ta đều thấy trong bối cảnh đại dịch bùng phát vào tháng 3, thế giới và ở Thổ Nhĩ Kỳ, các mục tiêu du lịch đã đặt ra đã bị chậm lại ở mức 3-5%. Theo các chuyên gia, năm nay dự kiến luồng khách du lịch sẽ cực kỳ hạn chế, ngành du lịch toàn cầu sẽ mất khoảng 1,2 nghìn tỷ đô la”, - ông Budak nói.
Sau khi lưu ý rằng các cuộc đàm phán gần đây giữa Bộ trưởng Ngoại giao Thổ Nhĩ Kỳ Chavushoglu và đại diện các quốc gia châu Âu về việc mở cửa biên giới và khôi phục lại dòng khách du lịch đã không mang lại kết quả mong muốn, vị nghị sĩ nói thêm:
“Cả đại diện của ngành du lịch và chính quyền đều không thực hiện các bước cần thiết kịp thời khi mà còn có thể dễ dàng đối phó với các tổn thất. Điều này đã đưa đến một cuộc khủng hoảng tồi tệ hơn. Đặc biệt, đại diện của ngành du lịch đã rất trông chờ vào vận động hành lang tích cực ở các quốc gia vốn là các khách hàng du lịch thường xuyên của chúng tôi. Chúng ta thấy cách lãnh đạo đã không đạt được thành công trong ngoại giao và họ trở về với hai bàn tay trắng hồi tháng Bảy từ các cuộc đàm phán với các nước EU, đặc biệt là Đức, đây là các quốc gia mà Thổ Nhĩ Kỳ rất kỳ vọng. Có thể nói rằng một trong những lý do dẫn tới điều này là sự thiếu minh bạch về dữ liệu trong nước về đại dịch”.
Hạn chế liên lạc hàng không với Thổ Nhĩ Kỳ
Trả lời câu hỏi về lý do tại sao châu Âu khăng khăng duy trì các hạn chế về liên lạc giao thông hàng không với Thổ Nhĩ Kỳ, ông Budak nói:
“Các đối tác Pan-European Partners (PANEL), một phần của Cơ quan an toàn hàng không châu Âu (EASA), mà Thổ Nhĩ Kỳ là thành viên, cung cấp cho khách du lịch và hãng hàng không châu Âu thông tin về việc các sân bay của quốc gia đích đến có an toàn không. Về phần mình, các hãng hàng không đánh giá các dữ liệu này và dựa vào đó lập kế hoạch cho mạng lưới các chuyến bay của họ. Trong đại dịch, đánh giá an toàn sân bay tại thành phố đích được đánh giá bằng cách xác định số lượng các trường hợp nhiễm Covid-19 và các chuyến bay được lên kế hoạch dựa theo đó. Tuy nhiên, tại Thổ Nhĩ Kỳ, dữ liệu về các trường hợp nhiễm vi khuẩn Covid-19 cho tới hiện nay vẫn không được cung cấp theo từng tỉnh, mà là con số chung cho cả nước, do đó, cơ quan này không thể đánh giá đầy đủ mức độ an toàn của các chuyến bay đến các điểm du lịch ở Thổ Nhĩ Kỳ”.
Theo ông Budak, nếu tất cả các yêu cầu cần thiết không được đáp ứng để thu hút khách du lịch nước ngoài, khoảng 70% ngành du lịch sẽ tiếp tục ngồi chờ việc.
“Nếu chúng ta muốn thu hút khách du lịch nước ngoài và đặc biệt là khách du lịch từ Châu Âu thì phải tuân thủ các điều kiện này, tức cần phải công bố dữ liệu về các trường hợp nhiễm bệnh theo từng tỉnh. Trong tình huống này, rõ ràng là quốc gia nào cung cấp dữ liệu minh bạch và dễ truy cập hơn thì sẽ được khách du lịch tin tưởng hơn, vì bản thân lượng du khách đã không lớn. Theo số liệu chính thức, ngành du lịch của Thổ Nhĩ Kỳ, vốn cung cấp việc làm cho khoảng 1 triệu 500 nghìn người, hiện có tới 70% đang dừng hoạt động. Rõ ràng nếu không thực thi các bước cần thiết thì tình hình sẽ không thay đổi. Trong khoảng 8 tháng nay, nhân viên ngành du lịch ở các vùng phát triển du lịch bãi biển bị thất nghiệp nhiều nhất, đó là những người làm việc ở Istanbul, Mugla, Aydin, cũng như lao động thời vụ làm việc trong ngành du lịch, với số lượng khoảng 700 nghìn người. Nếu điều này tiếp tục, họ sẽ vẫn không có việc làm cho tới tận mùa du lịch sau”, - ông Budak kết luận.