Top 15 di sản văn hóa phi vật thể Việt Nam được UNESCO công nhận
© Depositphotos.com / ItpnpcCô gái mặc aó dài Việt Nam
© Depositphotos.com / Itpnpc
Đăng ký
Hiện Việt Nam có 15 di sản văn hóa phi vật thể được UNESCO vinh danh. Việc công nhận di sản văn hóa phi vật thể của Việt Nam bởi UNESCO có ý nghĩa quan trọng, giúp tăng cường nhận thức và cam kết của cộng đồng trong việc bảo vệ và phát huy di sản này.
- 1. Nhã nhạc cung đình Huế
- 2. Không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên
- 3. Ca trù
- 4. Dân ca quan họ Bắc Ninh
- 5. Hội Gióng ở đền Phù Đổng và đền Sóc
- 6. Hát Xoan
- 7. Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương
- 8. Đờn ca tài tử Nam Bộ
- 9. Dân ca Ví, Giặm Nghệ Tĩnh
- 10. Nghi lễ và trò chơi kéo co
- 11. Thực hành Tín ngưỡng thờ Mẫu Tam phủ của người Việt
- 12. Nghệ thuật Bài chòi Trung Bộ
- 13. Thực hành Then của người Tày, Nùng, Thái
- 14. Nghệ thuật Xòe Thái
- 15. Nghệ thuật làm gốm của người Chăm
1. Nhã nhạc cung đình Huế
Năm công nhận: 2003
Nhã nhạc Cung đình Huế (Nha nhac Cung dinh Hue) là một hình thức âm nhạc truyền thống của Việt Nam, được phát triển và biểu diễn trong hoàng cung triều đại Nguyễn tại Huế từ thế kỷ 18 đến thế kỷ 20.
Nhã nhạc Cung đình Huế có một số yếu tố chính như: nhạc cụ, âm giai và nhịp điệu. Nhã nhạc Cung đình Huế được coi là một trong những biểu cảm cao nhất của nghệ thuật âm nhạc truyền thống Việt Nam.
Nhã nhạc Cung đình Huế đã được UNESCO công nhận là di sản văn hóa phi vật thể của nhân loại vào năm 2003, đóng góp vào việc bảo tồn và phát huy giá trị của nghệ thuật âm nhạc truyền thống Việt Nam.
2. Không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên
Năm công nhận: 2005
Không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên trải rộng trên 5 tỉnh Gia Lai, Kon Tum, Đắk Lắk, Đắk Nông và Lâm Đồng.
Điều đặc biệt trong văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên nằm ở chỗ, tất cả các lễ hội trong năm, từ lễ thổi tai cho trẻ sơ sinh đến lễ bỏ mả, lễ cúng máng nước, lễ mừng cơm mới, lễ đóng cửa kho, lễ đâm trâu.. . hay trong một buổi nghe khan... đều phải có tiếng cồng. Tiếng chiêng dài hơn đời người, tiếng chiêng nối liền, kết dính những thế hệ.
Ngày 25/11/2005, Văn hóa Cồng chiêng Tây Nguyên của Việt Nam đã được UNESCO chính thức công nhận là kiệt tác văn hóa phi vật thể và truyền khẩu của nhân loại.
© Ảnh : Quang HuyNhững cô gái Tây Nguyên trong trang phục thổ cẩm truyền thống
Những cô gái Tây Nguyên trong trang phục thổ cẩm truyền thống
© Ảnh : Quang Huy
3. Ca trù
Năm công nhận: 2009
Ca trù là một loại hình nghệ thuật âm nhạc truyền thống của Việt Nam, được biểu diễn từ thời đại Trần (thế kỷ XIII) và phát triển mạnh mẽ trong triều đại Lê sơ khai (thế kỷ XV đến thế kỷ XVIII). Ca trù chủ yếu trở nên phổ biến trong vòng quanh khu vực miền Bắc Việt Nam, đặc biệt là ở Hà Nội.
Ca trù thường biểu diễn bởi một nữ ca sĩ được gọi là ca nương, cùng với một nhóm nhạc công đánh trống kèn và đàn đáy. Các vở ca trù thường kể chuyện tình yêu, thiên nhiên, và cuộc sống hàng ngày. Nghệ sĩ thường sử dụng các kỹ thuật âm nhạc và giọng hát đặc trưng của ca trù, bao gồm trách tấu và tranh tấu, để tạo ra âm thanh độc đáo và cảm xúc sâu lắng.
Ca trù đã được UNESCO công nhận là Di sản văn hóa phi vật thể của nhân loại vào năm 2009, nhằm bảo vệ và đề cao giá trị của nghệ thuật ca trù và góp phần quan trọng vào việc bảo tồn và phát triển nền văn hóa truyền thống Việt Nam.
© Ảnh : GoogleBiểu tượng đặc biệt về ca trù được thay thế tạm thời cho biểu tượng Google trên trang chủ Google.com.vn trong 1 ngày 23/2.
Biểu tượng đặc biệt về ca trù được thay thế tạm thời cho biểu tượng Google trên trang chủ Google.com.vn trong 1 ngày 23/2.
© Ảnh : Google
4. Dân ca quan họ Bắc Ninh
Năm công nhận: 2009
Quan họ là lối hát giao duyên (hát đối) giữa "liền anh" (bên nam, người nam giới hát quan họ) và "liền chị" (bên nữ, người phụ nữ hát quan họ). Ngày nay, quan họ còn là hình thức thể hiện tình cảm khi biểu diễn giữa liền anh, liền chị với khán giả.
Quan họ thường được biểu diễn trong các buổi họp mặt, lễ hội và các sự kiện tròn niên. Nghệ sĩ sử dụng giọng hát du dương, kỹ thuật ca truyền thống và tình cảm trong cách biểu diễn. Quan họ mang trong mình giá trị văn hóa sâu sắc, thể hiện tinh thần đoàn kết và tình yêu thương giữa con người.
Năm 2009, Quan họ Bắc Ninh đã được UNESCO công nhận là Di sản văn hóa phi vật thể của nhân loại, góp phần quan trọng vào việc bảo tồn và phát triển nghệ thuật dân gian truyền thống Việt Nam.
5. Hội Gióng ở đền Phù Đổng và đền Sóc
Năm công nhận: 2010
Hội Gióng là một lễ hội truyền thống ở Việt Nam, diễn ra tại đền Phù Đổng và đền Sóc, nằm ở Quận Sóc Sơn, Hà Nội. Lễ hội được tổ chức nhằm vinh danh anh hùng dân tộc Gióng, một nhân vật huyền thoại trong lịch sử và truyền thuyết Việt Nam.
Lễ hội Hội Gióng thường diễn ra vào mỗi năm vào đầu mùa xuân, thường là ngày 6-7 tháng 2 âm lịch. Trong lễ hội, người dân tham gia sẽ mặc áo giáp và cầm đao, trình diễn văn nghệ, múa lân, múa cườm, và các trò chơi truyền thống khác. Trọng tâm của lễ hội là diễu hành lễ tạ Gióng, nơi một người được chọn trở thành Gióng để diễu hành trên lưng một con ngựa khổng lồ xung quanh khu vực đền.
Hội Gióng được UNESCO công nhận là Di sản văn hóa phi vật thể của nhân loại vào năm 2010, tôn vinh giá trị và ý nghĩa văn hóa của lễ hội trong việc bảo tồn và phát triển di sản truyền thống Việt Nam.
6. Hát Xoan
Năm công nhận: 2011 và 2017
Hát Xoan là một hình thức nghệ thuật truyền thống của người dân Phú Thọ, Việt Nam. Được truyền bá từ thế kỷ XIII, Hát Xoan được biểu diễn trong các dịp lễ hội và buổi họp mặt cộng đồng.
Hát Xoan thường được biểu diễn bởi một nhóm người hát, gồm các ca sĩ nam và nữ, đồng thời kèm theo những nhạc cụ truyền thống như đàn nguyệt, đàn tranh và tiêu. Nghệ sĩ sử dụng giọng ca mềm mại và phong cách biểu diễn đặc trưng để thể hiện những câu chuyện dân gian và tình cảm gia đình.
Ngày 24/11/2011, Hát Xoan được ghi danh vào Danh sách Di sản Văn hóa Phi vật thể cần Bảo vệ khẩn cấp của nhân loại.
Vào ngày 8/12/2017, Hát Xoan được UNESCO đưa ra khỏi Danh sách Di sản Văn hóa Phi vật thể cần bảo vệ khẩn cấp để ghi danh vào Danh sách Di sản Văn hóa Phi vật thể Đại diện Nhân loại.
© Sputnik / Taras IvanovCác nghệ sĩ nhí biểu diễn bài hát xoan truyền thống
Các nghệ sĩ nhí biểu diễn bài hát xoan truyền thống
© Sputnik / Taras Ivanov
7. Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương
Năm công nhận: 2012
Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương là một phần quan trọng của văn hóa và truyền thống tôn giáo của người Việt Nam. Hùng Vương được coi là tổ tiên và vua sáng lập của dân tộc Việt Nam.
Lễ hội thờ cúng Hùng Vương thường diễn ra vào ngày 10 tháng 3 âm lịch hàng năm tại đền Hùng ở Phú Thọ. Người dân Việt Nam đến đền để tưởng nhớ và tôn vinh công đức của các vị vua Hùng, đồng thời cầu khấn sự bình an và thành công cho gia đình và tập thể cộng đồng.
Trong lễ hội này, người dân tham gia vào những hoạt động như hoa giỗ, dâng trầu, trình diễn văn nghệ và các màn diễu hành truyền thống.
Thờ cúng Hùng Vương là một biểu tượng quan trọng của sự đoàn kết và lòng tự hào dân tộc Việt Nam, đóng vai trò quan trọng trong việc bảo tồn và phát triển văn hóa và tín ngưỡng của người Việt.
Ngày 6/12/2012, tín ngưỡng thờ cúng Hùng vương được UNESCO ghi danh vào Danh sách Di sản Văn hóa Phi vật thể Đại diện Nhân loại.
© Ảnh : Vũ Đình CầnLễ Giỗ Tổ Hùng Vương tại CH Séc
Lễ Giỗ Tổ Hùng Vương tại CH Séc
© Ảnh : Vũ Đình Cần
8. Đờn ca tài tử Nam Bộ
Năm công nhận: 2013
Đờn ca tài tử Nam Bộ là một thể loại âm nhạc truyền thống của miền Nam Việt Nam. Nó phát triển từ thế kỷ XIX và thể hiện các nét đặc trưng văn hóa và âm nhạc của người dân Nam Bộ.
Đờn ca tài tử Nam Bộ thường được biểu diễn bởi một nhóm nhỏ nghệ sĩ, bao gồm cây đàn trống, đàn kìm, đàn tranh, đàn nguyệt, sáo, dàn gánh, và một nghệ sĩ ca hát.
Các ca khúc của đờn ca tài tử Nam Bộ thường thể hiện những câu chuyện tình yêu, cảnh đẹp thiên nhiên, và đời sống hàng ngày của người dân Nam Bộ.
Đờn ca tài tử Nam Bộ được UNESCO công nhận là Di sản văn hóa phi vật thể của nhân loại vào năm 2013, góp phần quan trọng trong việc bảo tồn và phát triển âm nhạc truyền thống Việt Nam.
© Sputnik / Taras IvanovBiểu diễn hát xoan truyền thống
Biểu diễn hát xoan truyền thống
© Sputnik / Taras Ivanov
9. Dân ca Ví, Giặm Nghệ Tĩnh
Năm công nhận: 2014
Dân ca Ví, Giặm là một thể loại âm nhạc truyền thống của người dân ở Nghệ An và Hà Tĩnh, hai tỉnh thuộc miền Trung Việt Nam.
Dân ca Ví, Giặm thường được biểu diễn bởi một nhóm người, gồm các ca sĩ nam và nữ, đồng thời kèm theo những nhạc cụ truyền thống như đàn nguyệt, đàn tranh, đàn đáy, và sáo. Âm thanh của dân ca Ví, Giặm có âm điệu khá đặc trưng, thường có giai điệu trầm ấm.
Các bài hát trong dân ca Ví, Giặm thường mang nội dung tình yêu, cuộc sống quê hương và các câu chuyện lịch sử, truyền thống.
Ngày 27/11/2014, Dân ca Ví, Giặm Nghệ Tĩnh chính thức được công nhận là Di sản Văn hóa Phi vật thể Đại diện Nhân loại.
10. Nghi lễ và trò chơi kéo co
Năm công nhận: 2015
Tại Việt Nam, nghi lễ kéo co thường có mặt trong các ngày lễ, lễ hội và các sự kiện truyền thống như năm mới, hội đền, hay lễ hội làng xã. Hoạt động này không chỉ mang tính chất giải trí và thể thao, mà còn có ý nghĩa văn hóa và tương tác xã hội.
Trò chơi kéo co không chỉ thể hiện sức mạnh và sự chiến đấu đồng đội, mà còn tạo ra sự kết nối và sự gắn kết trong cộng đồng. Ngoài ra, trò chơi này còn đòi hỏi sự đồng lòng và phối hợp giữa các thành viên trong đội để có thể chiến thắng.
Tại Việt Nam, nghi lễ và trò chơi kéo co tập trung ở vùng trung du, Đồng bằng sông Hồng và Bắc Trung Bộ, và một số nơi ở vùng núi phía Bắc.
Ngày 2/12/2015, Nghi lễ và trò chơi kéo co ở Việt Nam, Campuchia, Hàn Quốc và Philippines chính thức được UNESCO ghi danh vào Danh sách Di sản Văn hóa Phi vật thể Đại diện Nhân loại.
11. Thực hành Tín ngưỡng thờ Mẫu Tam phủ của người Việt
Năm công nhận: 2016
Tín ngưỡng thờ Mẫu Tam phủ là một phần quan trọng của truyền thống tôn giáo và tâm linh của người Việt. Đây là sự hỗn dung tôn giáo bản địa của người Việt và một số yếu tố của tôn giáo du nhập như Đạo giáo, Phật giáo.
Mẫu Tam phủ được coi là các thần linh bảo hộ, bảo vệ và ban phước cho các vùng miền, là cụm tâm linh của đất mẹ và con người. Tín ngưỡng này thường được thực hành tại các đền, miếu và chùa trên khắp Việt Nam, nhưng đặc biệt phổ biến ở miền Bắc.
Thực hành tín ngưỡng thờ Mẫu Tam phủ không chỉ mang ý nghĩa tôn giáo mà còn có vai trò quan trọng trong việc bảo tồn và phát triển văn hóa truyền thống của người Việt. Đây là một phần không thể thiếu trong đời sống tâm linh và quốc gia của người dân Việt Nam.
Ngày 1/12/2016, di sản Thực hành Tín ngưỡng thờ Mẫu Tam phủ của người Việt chính thức được UNESCO ghi danh vào Danh sách Di sản Văn hóa Phi vật thể Đại diện Nhân loại.
© Ảnh : Elena NikulinaLễ giới thiệu tín ngưỡng Thờ Mẫu Tam Phủ ở Matxcơva
Lễ giới thiệu tín ngưỡng Thờ Mẫu Tam Phủ ở Matxcơva
© Ảnh : Elena Nikulina
12. Nghệ thuật Bài chòi Trung Bộ
Năm công nhận: 2017
Nghệ thuật Bài chòi Trung Bộ làhình thức biểu diễn truyền thống của người dân ở miền Trung Việt Nam ( Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên Huế, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên, Khánh Hòa và Đà Nẵng). Bài chòi kết hợp giữa nghệ thuật hát, diễn kịch và chơi bài trong một không gian truyền thống .
Bài chòi được trình diễn trong những tòa nhà chòi đặc biệt được xây dựng, có hình dạng giống như những căn nhà thôn quê truyền thống với mái ngói và cửa sổ. Trong mỗi tòa chòi, có hai phòng được chia làm hai đội đối đáp với nhau gồm đội đệm và đội chòi.
Trong một buổi biểu diễn Bài chòi, người xem sẽ mua vé và ngồi trong và quanh tòa chòi. Khi diễn viên trình diễn, người xem có thể đặt câu hỏi hoặc gỡ bài để thách đấu với diễn viên. Bài chòi không chỉ là một hình thức giải trí mà còn thể hiện sự tương tác và tình cảm giữa người biểu diễn và khán giả.
Nghệ thuật Bài chòi đã được UNESCO công nhận là Di sản Văn hóa phi vật thể của nhân loại vào năm 2017.
13. Thực hành Then của người Tày, Nùng, Thái
Năm công nhận: 2019
Thực hành then là một nét văn hóa đặc trưng của người Tày, Nùng và Thái ở Việt Nam. Then là một loại hình ca hát dân ca được thể hiện trong các nghi lễ văn hóa tôn giáo và cộng đồng của người dân.
Trong thực hành then, một người chủ họ là "ông then" hoặc "bà then" được chọn để trở thành nhân vật chính. Nhân vật này là người có khả năng giao tiếp và tiếp nhận thông điệp từ thần linh và các linh hồn. Các "ông họ" hoặc "bà họ" khác cũng tham gia trong việc hát đối đáp với "ông then" và cùng nhau trình diễn các bài hát then.
Bài hát then thường có nội dung chủ yếu xoay quanh việc mời gọi và chào đón các thần linh, linh hồn và tổ tiên, cầu nguyện cho sự phát triển và an lành cho gia đình, cộng đồng và vùng đất. Bằng cách này, thực hành then không chỉ có ý nghĩa tôn giáo mà còn có vai trò quan trọng trong việc tạo và duy trì sự đoàn kết và thịnh vượng cho cộng đồng.
Ngày 13/12/2019, Thực hành Then của người Tày, Nùng, Thái chính thức được UNESCO ghi danh vào Danh sách Di sản Văn hóa Phi vật thể Đại diện Nhân loại.
14. Nghệ thuật Xòe Thái
Năm công nhận: 2021
Nghệ thuật Xòe Thái là một hình thức biểu diễn truyền thống của người dân tộc Thái ở Việt Nam. Xòe Thái là một loại múa truyền thống thể hiện qua các bước nhảy và vũ điệu đẹp mắt.
Một điểm đặc biệt của múa xòe Thái là sự đồng diễn và cùng nhau nhảy một nhịp với nhạc. Các vũ công di chuyển trog các đợt sóng liên tục, tạo nên hình ảnh tương đối như các đám mây trôi nổi trong không khí. Đồng thời, các diễn viên còn biểu diễn các động tác cánh tay và bước chân phong phú, tạo ra một màn trình diễn sôi động và hấp dẫn.
Xòe Thái không chỉ là biểu diễn nghệ thuật mà còn là một phong tục, một hoạt động âm nhạc và múa truyền thống của người dân Tây Bắc. Nó không chỉ mang ý nghĩa văn hóa sâu sắc mà còn là một cách để người dân gắn kết, giao lưu và giữ gìn truyền thống của mình.
Tháng 12/2021, hồ sơ Nghệ thuật Xòe Thái đã được UNESCO ghi danh là Di sản Văn hóa Phi vật thể Đại diện Nhân loại.
15. Nghệ thuật làm gốm của người Chăm
Năm công nhận: 2022
Nghệ thuật làm Gốm độc đáo của đồng bào Chăm (Gốm Chăm) tại làng Bàu Trúc (tỉnh Ninh Thuận) tồn tại từ khoảng cuối thế kỷ XII.
Nghệ nhân làng gốm Bàu Trúc thường sử dụng phương pháp làm gốm thủ công truyền thống từ ngàn xưa. Công đoạn tạo hình và nặn gốm thường được thực hiện bằng tay, trên cối gốm tròn bằng gốm cừ.
Ngày 29/11/2022, Nghệ thuật làm Gốm của người Chăm chính thức được UNESCO ghi danh vào Danh sách Di sản Văn hóa Phi vật thể Đại diện Nhân loại.