https://kevesko.vn/20251001/du-bao-thoi-diem-viet-nam-thanh-nuoc-thu-nhap-cao-38691862.html
Dự báo thời điểm Việt Nam thành nước thu nhập cao
Dự báo thời điểm Việt Nam thành nước thu nhập cao
Sputnik Việt Nam
Giáo sư Trần Văn Thọ, Đại học Waseda (Nhật Bản) đánh giá, Việt Nam nhiều khả năng trở thành nước thu nhập cao trước năm 2045. 01.10.2025, Sputnik Việt Nam
2025-10-01T20:08+0700
2025-10-01T20:08+0700
2025-10-01T20:08+0700
việt nam
thu nhập
kinh tế
thông tin
gdp
kinh doanh
doanh nghiệp
xuất khẩu
https://cdn.img.kevesko.vn/img/07e9/0a/01/38691843_0:86:3072:1814_1920x0_80_0_0_7e6838c6acf8a7bd2ec5d85179039d64.jpg
Dù kịch bản nào xảy ra, yếu tố quyết định vẫn là năng suất lao động, cùng với khả năng duy trì tăng trưởng cao trong nhiều năm liên tục.Niềm tin vào Việt NamGiáo sư Trần Văn Thọ, giảng dạy tại Đại học Waseda (Nhật Bản), vừa đưa ra ba kịch bản phát triển kinh tế của Việt Nam đến năm 2045.Chuyên gia tin rằng, dù ở kịch bản khả thi hay khó thực hiện nhất, khả năng rất cao là Việt Nam sẽ trở thành nước có thu nhập cao, giống như Nhật Bản, Hàn Quốc hay Trung Quốc trong những thập kỷ qua.Kịch bản thứ nhất - tham vọng nhất, nhưng cũng khó thực hiện nhất. Trong giai đoạn 2026-2035, GDP của Việt Nam phải tăng trưởng trung bình 10%/năm, trong khi dân số tăng 0,5%. Từ 2036 đến 2050, GDP cần tăng trưởng 7% và dân số chỉ tăng khoảng 0,2%. Nếu đạt được điều kiện này, theo tính toán của Giáo sư Trần Văn Thọ, Việt Nam có thể bước vào nhóm nước thu nhập cao ngay từ năm 2039.Kịch bản thứ hai, được đánh giá là khả thi hơn, đặt ra mức tăng trưởng GDP trung bình 7,5%/năm trong giai đoạn 2026-2030, sau đó đạt 10%/năm trong giai đoạn 2031-2040. Khi đó, Việt Nam cũng sẽ cán mốc thu nhập cao vào năm 2039.Trong khi đó, kịch bản thứ ba được xem là thực tế và dễ xảy ra nhất. Ở kịch bản này, Việt Nam không có giai đoạn tăng trưởng hai con số. Từ 2026 đến 2035, GDP tăng trưởng trung bình 8,5%/năm; giai đoạn 2036-2045, GDP duy trì ở mức 5,5%/năm. Với lộ trình này, đến năm 2044, Việt Nam vẫn có thể đạt mục tiêu trở thành nước thu nhập cao.Thách thức từ “bẫy thu nhập trung bình”Việt Nam chính thức bước vào nhóm các nước có thu nhập trung bình thấp vào năm 2009. Tuy nhiên, theo Giáo sư Trần Văn Thọ, việc đi tiếp lên mức thu nhập trung bình cao và thu nhập cao là một hành trình đầy khó khăn. Nhiều quốc gia trên thế giới đã vấp phải “bẫy thu nhập trung bình” vì năng suất lao động không tăng trưởng như kỳ vọng.Việt Nam muốn thoát khỏi bẫy thu nhập trung bình thì cần phải tăng năng suất lao động. Đây là điều kiện then chốt.Chuyên gia phân tích, trong 35 năm qua, tăng trưởng kinh tế bình quân của Việt Nam đạt 6,5%/năm, trong khi thu nhập bình quân đầu người tăng 5%/năm. Thành quả này được đánh giá là đáng ghi nhận, nhưng chưa tạo được bước nhảy vọt như Nhật Bản, Hàn Quốc và Trung Quốc từng đạt. Nguyên nhân chính là tốc độ tăng năng suất lao động của Việt Nam vẫn thấp.Theo số liệu, giai đoạn 2011-2020, năng suất lao động tăng khoảng 5,29%/năm, trong đó giai đoạn 2016-2020 tăng 5,8%, cao hơn mục tiêu đề ra là 5%. Dù vậy, so với các quốc gia phát triển trong khu vực, mức tăng này vẫn còn khiêm tốn.Vì sao năng suất lao động thấp? Theo nhà kinh tế này thì một trong những nguyên nhân chủ yếu, là khu vực lao động phi chính thức chiếm tỷ lệ quá lớn – trên 64%. Bên cạnh đó, công nghiệp chế biến, chế tạo tuy có năng suất cao nhưng vẫn chủ yếu gia công, lắp ráp, giá trị gia tăng thấp.Càng xuất khẩu hàng công nghiệp, Việt Nam càng phải nhập khẩu khối lượng lớn sản phẩm trung gian, khiến vị trí trong chuỗi giá trị toàn cầu chủ yếu vẫn dừng ở vai trò công xưởng lắp ráp.Ngoài ra, khu vực tư nhân, vốn được xem là động lực của nền kinh tế vẫn còn yếu. Đa số doanh nghiệp là siêu nhỏ, nhỏ và vừa, thiếu khả năng cạnh tranh. Hơn 5 triệu hộ kinh doanh cá thể hiện thu hút tới 9 triệu lao động, nhưng năng suất không cao.Để cải thiện, Việt Nam đã ban hành nhiều chính sách quan trọng. Nghị quyết 50-NQ/TW (2019) đặt mục tiêu đổi mới tư duy trong thu hút đầu tư nước ngoài, hướng tới công nghệ cao và bền vững. Nghị quyết 68-NQ/TW cũng xác định khu vực tư nhân là động lực quan trọng, với mục tiêu năng suất lao động của khu vực này đạt 8,5-9,5%/năm vào năm 2030.Theo Giáo sư Trần Văn Thọ, điều kiện tiên quyết để trở thành nước có thu nhập cao là phải duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế cao trong thời gian dài.Thách thức lớn với Việt Nam là “chưa giàu đã già”. Hiện tỷ lệ dân số trên 65 tuổi đã đạt 10% và dự báo tăng lên 15% vào năm 2039. Trong khi đó, Nhật Bản khi đạt mức thu nhập cao năm 1969, tỷ lệ này mới ở mức 7%.Do vậy, tăng trưởng kinh tế không chỉ nhằm nâng cao thu nhập mà còn phải đi cùng chất lượng phát triển, giữ cân bằng với xã hội và môi trường. Tăng trưởng phải vì cuộc sống và hạnh phúc của người dân. Đây là kim chỉ nam trong chiến lược phát triển kinh tế của Việt Nam.Việt Nam hiện đã ban hành nhiều chính sách thúc đẩy phát triển bền vững, khuyến khích doanh nghiệp ứng dụng công nghệ thân thiện môi trường, cổ vũ kinh tế tuần hoàn và thay đổi thói quen tiêu dùng theo hướng xanh hơn.Khác với nhiều quốc gia từng rơi vào tình trạng bất bình đẳng xã hội khi tăng trưởng quá nhanh, Việt Nam đặt mục tiêu phát triển con người làm trung tâm và “không bỏ ai lại phía sau”. Mới đây, Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết 71-NQ/TW về đột phá giáo dục – đào tạo, khẳng định giáo dục là quốc sách hàng đầu, quyết định tương lai dân tộc.Từ năm học 2025-2026, Việt Nam sẽ miễn và hỗ trợ học phí từ bậc mầm non đến hết phổ thông, với khoảng 23,2 triệu học sinh được thụ hưởng. Nhà nước giữ vai trò chiến lược trong bảo đảm công bằng giáo dục, đủ trường, đủ lớp, đủ giáo viên cho nhu cầu học tập ngày càng cao.Song song, Nghị quyết 72-NQ/TW về tăng cường bảo vệ và nâng cao sức khỏe nhân dân đặt mục tiêu đến năm 2026, toàn dân được khám sức khỏe định kỳ miễn phí ít nhất một lần/năm, từng bước giảm gánh nặng chi phí y tế. Đến năm 2030, người dân sẽ được miễn viện phí cơ bản trong phạm vi bảo hiểm y tế.
https://kevesko.vn/20250929/su-troi-day-phi-thuong-cua-viet-nam-va-ke-hoach-cua-tong-bi-thu-to-lam-38635937.html
https://kevesko.vn/20250925/my-co-the-khien-viet-nam-mat-25-ty-usd-nhung-nen-kinh-te-da-co-la-chan-38558256.html
https://kevesko.vn/20240812/viet-nam-but-pha-hanh-trinh-tro-thanh-quoc-gia-thu-nhap-trung-binh-cao-31296923.html
Sputnik Việt Nam
moderator.vn@sputniknews.com
+74956456601
MIA „Rossiya Segodnya“
2025
Sputnik Việt Nam
moderator.vn@sputniknews.com
+74956456601
MIA „Rossiya Segodnya“
tin thời sự
vn_VN
Sputnik Việt Nam
moderator.vn@sputniknews.com
+74956456601
MIA „Rossiya Segodnya“
https://cdn.img.kevesko.vn/img/07e9/0a/01/38691843_341:0:3072:2048_1920x0_80_0_0_94db4b42a0fbcb9b898c5a88aca1d04a.jpgSputnik Việt Nam
moderator.vn@sputniknews.com
+74956456601
MIA „Rossiya Segodnya“
việt nam, thu nhập, kinh tế, thông tin, gdp, kinh doanh, doanh nghiệp, xuất khẩu
việt nam, thu nhập, kinh tế, thông tin, gdp, kinh doanh, doanh nghiệp, xuất khẩu
Dù kịch bản nào xảy ra, yếu tố quyết định vẫn là năng suất lao động, cùng với khả năng duy trì tăng trưởng cao trong nhiều năm liên tục.
Giáo sư Trần Văn Thọ, giảng dạy tại Đại học Waseda (Nhật Bản), vừa đưa ra ba kịch bản phát triển kinh tế của Việt Nam đến năm 2045.
Chuyên gia tin rằng, dù ở kịch bản khả thi hay khó thực hiện nhất, khả năng rất cao là Việt Nam sẽ trở thành nước có thu nhập cao, giống như Nhật Bản, Hàn Quốc hay Trung Quốc trong những thập kỷ qua.
Kịch bản thứ nhất - tham vọng nhất, nhưng cũng khó thực hiện nhất. Trong giai đoạn 2026-2035, GDP của Việt Nam phải tăng trưởng trung bình 10%/năm, trong khi dân số tăng 0,5%. Từ 2036 đến 2050, GDP cần tăng trưởng 7% và dân số chỉ tăng khoảng 0,2%. Nếu đạt được điều kiện này, theo tính toán của Giáo sư Trần Văn Thọ, Việt Nam có thể bước vào nhóm nước thu nhập cao ngay từ năm 2039.
Kịch bản thứ hai, được đánh giá là khả thi hơn, đặt ra mức tăng trưởng GDP trung bình 7,5%/năm trong giai đoạn 2026-2030, sau đó đạt 10%/năm trong giai đoạn 2031-2040. Khi đó, Việt Nam cũng sẽ cán mốc thu nhập cao vào năm 2039.
Trong khi đó, kịch bản thứ ba được xem là thực tế và dễ xảy ra nhất. Ở kịch bản này, Việt Nam không có giai đoạn tăng trưởng hai con số. Từ 2026 đến 2035,
GDP tăng trưởng trung bình 8,5%/năm; giai đoạn 2036-2045, GDP duy trì ở mức 5,5%/năm. Với lộ trình này, đến năm 2044, Việt Nam vẫn có thể đạt mục tiêu trở thành nước thu nhập cao.
“Như vậy, dù là kịch bản nào – tốt, trung bình hay khó khả thi – thì nhiều khả năng Việt Nam vẫn đạt ngưỡng thu nhập cao trước năm 2045, tương tự Nhật Bản đã thành công vào năm 1969, Hàn Quốc năm 1995 và Trung Quốc dự kiến vào năm 2027”, Báo Đầu tư dẫn lời Giáo sư Thọ nhấn mạnh.
Thách thức từ “bẫy thu nhập trung bình”
Việt Nam chính thức bước vào nhóm các nước có thu nhập trung bình thấp vào năm 2009. Tuy nhiên, theo Giáo sư Trần Văn Thọ, việc đi tiếp lên mức thu nhập trung bình cao và thu nhập cao là một hành trình đầy khó khăn. Nhiều quốc gia trên thế giới đã vấp phải “bẫy thu nhập trung bình” vì năng suất lao động không tăng trưởng như kỳ vọng.
Việt Nam muốn thoát khỏi bẫy thu nhập trung bình thì cần phải tăng năng suất lao động. Đây là điều kiện then chốt.
Chuyên gia phân tích, trong 35 năm qua, tăng trưởng kinh tế bình quân của Việt Nam đạt 6,5%/năm, trong khi thu nhập bình quân đầu người tăng 5%/năm. Thành quả này được đánh giá là đáng ghi nhận, nhưng chưa tạo được bước nhảy vọt như Nhật Bản, Hàn Quốc và Trung Quốc từng đạt. Nguyên nhân chính là tốc độ tăng năng suất lao động của Việt Nam vẫn thấp.
Theo số liệu, giai đoạn 2011-2020, năng suất lao động tăng khoảng 5,29%/năm, trong đó giai đoạn 2016-2020 tăng 5,8%, cao hơn mục tiêu đề ra là 5%. Dù vậy, so với các quốc gia phát triển trong khu vực, mức tăng này vẫn còn khiêm tốn.
Vì sao năng suất lao động thấp? Theo nhà kinh tế này thì một trong những nguyên nhân chủ yếu, là khu vực lao động phi chính thức chiếm tỷ lệ quá lớn – trên 64%. Bên cạnh đó, công nghiệp chế biến, chế tạo tuy có năng suất cao nhưng vẫn chủ yếu gia công, lắp ráp, giá trị gia tăng thấp.
Càng xuất khẩu hàng công nghiệp, Việt Nam càng phải nhập khẩu khối lượng lớn sản phẩm trung gian, khiến vị trí trong chuỗi giá trị toàn cầu chủ yếu vẫn dừng ở vai trò công xưởng lắp ráp.
Ngoài ra, khu vực tư nhân, vốn được xem là động lực của nền kinh tế vẫn còn yếu. Đa số doanh nghiệp là siêu nhỏ, nhỏ và vừa, thiếu khả năng cạnh tranh. Hơn 5 triệu hộ kinh doanh cá thể hiện thu hút tới 9 triệu lao động, nhưng năng suất không cao.
Để cải thiện, Việt Nam đã ban hành nhiều chính sách quan trọng. Nghị quyết 50-NQ/TW (2019) đặt mục tiêu đổi mới tư duy trong thu hút đầu tư nước ngoài, hướng tới công nghệ cao và bền vững. Nghị quyết 68-NQ/TW cũng xác định khu vực tư nhân là động lực quan trọng, với mục tiêu năng suất lao động của khu vực này đạt 8,5-9,5%/năm vào năm 2030.
Theo Giáo sư Trần Văn Thọ, điều kiện tiên quyết để trở thành nước có thu nhập cao là phải duy trì tốc độ
tăng trưởng kinh tế cao trong thời gian dài.
Thách thức lớn với Việt Nam là “chưa giàu đã già”. Hiện tỷ lệ dân số trên 65 tuổi đã đạt 10% và dự báo tăng lên 15% vào năm 2039. Trong khi đó, Nhật Bản khi đạt mức thu nhập cao năm 1969, tỷ lệ này mới ở mức 7%.
Do vậy, tăng trưởng kinh tế không chỉ nhằm nâng cao thu nhập mà còn phải đi cùng chất lượng phát triển, giữ cân bằng với xã hội và môi trường. Tăng trưởng phải vì cuộc sống và hạnh phúc của người dân. Đây là kim chỉ nam trong chiến lược phát triển kinh tế của Việt Nam.
Việt Nam hiện đã ban hành nhiều chính sách thúc đẩy phát triển bền vững, khuyến khích
doanh nghiệp ứng dụng công nghệ thân thiện môi trường, cổ vũ kinh tế tuần hoàn và thay đổi thói quen tiêu dùng theo hướng xanh hơn.
Khác với nhiều quốc gia từng rơi vào tình trạng bất bình đẳng xã hội khi tăng trưởng quá nhanh, Việt Nam đặt mục tiêu phát triển con người làm trung tâm và “không bỏ ai lại phía sau”. Mới đây, Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết 71-NQ/TW về đột phá giáo dục – đào tạo, khẳng định giáo dục là quốc sách hàng đầu, quyết định tương lai dân tộc.
Từ năm học 2025-2026, Việt Nam sẽ miễn và hỗ trợ học phí từ bậc mầm non đến hết phổ thông, với khoảng 23,2 triệu học sinh được thụ hưởng. Nhà nước giữ vai trò chiến lược trong bảo đảm công bằng giáo dục, đủ trường, đủ lớp, đủ giáo viên cho nhu cầu học tập ngày càng cao.
Song song, Nghị quyết 72-NQ/TW về tăng cường bảo vệ và nâng cao sức khỏe nhân dân đặt mục tiêu đến năm 2026, toàn dân được khám sức khỏe định kỳ miễn phí ít nhất một lần/năm, từng bước giảm gánh nặng chi phí y tế. Đến năm 2030, người dân sẽ được miễn viện phí cơ bản trong phạm vi bảo hiểm y tế.