https://kevesko.vn/20251228/khi-nao-kinh-te-viet-nam-cham-moc-1000-ty-usd-40474324.html
Khi nào kinh tế Việt Nam chạm mốc 1.000 tỷ USD?
Khi nào kinh tế Việt Nam chạm mốc 1.000 tỷ USD?
Sputnik Việt Nam
PGS.TS. Nguyễn Đức Trung, Hiệu trưởng Trường đại học Ngân hàng TP.HCM, cho rằng để duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế hai con số trong giai đoạn tới, tổng vốn... 28.12.2025, Sputnik Việt Nam
2025-12-28T21:15+0700
2025-12-28T21:15+0700
2025-12-28T21:15+0700
việt nam
kinh tế
fdi
thông tin
gdp
tăng trưởng kinh tế
ai
chính trị
ngân hàng
doanh nghiệp
https://cdn.img.kevesko.vn/img/07e9/0b/1e/39843884_0:0:731:411_1920x0_80_0_0_7b951cbf1c7fd7cf97a44e4473fd4900.jpg
Theo ông, Việt Nam không thiếu vốn. Nếu nguồn vốn được huy động đầy đủ và sử dụng hiệu quả, chỉ trong khoảng 6-7 năm tới, quy mô nền kinh tế hoàn toàn có thể chạm mốc 1.000 tỷ USD.Tổng vốn đầu tư hàng năm phải rất lớn để tăng trưởng 2 con sốTrả lời câu hỏi về quy mô vốn đầu tư toàn xã hội cần thiết để đạt tăng trưởng hai con số, TS. Nguyễn Đức Trung dẫn số liệu cho thấy trong khoảng 15 năm trở lại đây, tổng vốn đầu tư toàn xã hội của Việt Nam chỉ dao động ở mức 32-34% GDP, trong khi tốc độ tăng trưởng GDP trung bình chỉ đạt khoảng 6% mỗi năm. Riêng năm 2024, tỷ lệ vốn đầu tư toàn xã hội tương đương 32,1% GDP, giảm 1,2 điểm phần trăm so với năm 2023, khi đạt 33,3% GDP.Năm nay là năm cuối cùng thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội giai đoạn 2021-2025. Theo chỉ đạo của Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ, trọng tâm là đẩy mạnh giải ngân vốn đầu tư công, hoàn thành các dự án đã nằm trong kế hoạch trung hạn, đồng thời khởi công và hoàn thiện những công trình quan trọng, thiết yếu nhằm tạo nền tảng cho mức tăng trưởng tối thiểu 10% trong 5 năm tới. Tuy nhiên, tổng vốn đầu tư toàn xã hội dự kiến vẫn chỉ đạt khoảng 33,2% GDP, tương đương khoảng 169 tỷ USD.Theo kinh nghiệm của các nền kinh tế đi trước như Trung Quốc, Nhật Bản và Hàn Quốc, để duy trì tăng trưởng hai con số, tỷ lệ vốn đầu tư toàn xã hội tối thiểu phải đạt 36-37% GDP. Điều này đồng nghĩa với việc quy mô vốn đầu tư phải rất lớn và tăng mạnh qua từng năm.Liên quan đến khả năng Việt Nam gia nhập “câu lạc bộ ngàn tỷ” theo mục tiêu phát triển kinh tế – xã hội tại Nghị quyết 244/2025/QH15, ông Trung cho biết năm nay, quy mô GDP dự kiến đạt khoảng 510 tỷ USD, tăng thêm 35-36 tỷ USD so với năm 2024.Nếu giả định năm 2026 đạt mức tăng trưởng 10%, GDP sẽ tăng thêm khoảng 51 tỷ USD, lên 561 tỷ USD. Trong trường hợp nền kinh tế tiếp tục duy trì mức tăng trưởng 10% mỗi năm, thì vào giai đoạn 2031-2032, quy mô GDP của Việt Nam sẽ đạt tối thiểu 1.000 tỷ USD. Khi đó, tổng vốn đầu tư hàng năm sẽ phải ở mức rất lớn, ước tính khoảng 360-370 tỷ USD mỗi năm.Vốn ở đâu?Về câu hỏi nguồn vốn sẽ đến từ đâu, báo Đầu tư dẫn lời ông Trung khẳng định nếu các dự án đầu tư mang lại hiệu quả cao thì việc huy động vốn không phải là vấn đề. Nguồn vốn có thể được huy động thông qua thị trường chứng khoán, phát hành trái phiếu doanh nghiệp, và hệ thống ngân hàng cũng sẵn sàng cho vay. Không chỉ nguồn vốn trong nước có thể đáp ứng đầy đủ và kịp thời, mà dòng vốn gián tiếp nước ngoài cũng sẽ chảy vào thông qua việc mua cổ phiếu của doanh nghiệp niêm yết hoặc doanh nghiệp thực hiện phát hành cổ phiếu lần đầu ra công chúng.Tuy nhiên, thực tế cho thấy việc huy động vốn của doanh nghiệp thông qua thị trường chứng khoán và phát hành trái phiếu vẫn còn rất hạn chế. Tổng số vốn huy động mỗi năm thậm chí không bằng doanh số cho vay của một ngân hàng cổ phần quy mô nhỏ, khiến doanh nghiệp buộc phải phụ thuộc quá nhiều vào vốn vay ngân hàng.Đối với nguồn vốn đầu tư từ khu vực nhà nước, ông Trung cho rằng vẫn còn nhiều dư địa. Theo tính toán của Bộ Tài chính, đến hết năm 2025, nợ công ước khoảng 35-36% GDP, nợ Chính phủ khoảng 33-34% GDP và nợ nước ngoài vào khoảng 31-32% GDP. Trong khi đó, trần nợ công do Quốc hội thông qua là không quá 60% GDP, trần nợ Chính phủ không quá 50% GDP và trần nợ nước ngoài cũng không quá 50% GDP.Như vậy, khi cần thiết cho đầu tư công, kể cả với những dự án có quy mô lên tới hàng chục tỷ USD, Chính phủ hoàn toàn có thể vay trong nước và nước ngoài để triển khai, với điều kiện các dự án đó phải được thực hiện hiệu quả. Bên cạnh đó, ngân sách nhà nước những năm gần đây liên tục tăng thu và thường xuyên vượt dự toán, quy mô ngày càng mở rộng, qua đó tạo thêm nguồn lực cho đầu tư công.Về đầu tư trực tiếp nước ngoài, ông Trung đánh giá Chính phủ đã và đang triển khai hiệu quả Nghị quyết 50-NQ/TW ban hành năm 2019 về định hướng hoàn thiện thể chế, chính sách và nâng cao chất lượng, hiệu quả hợp tác đầu tư nước ngoài đến năm 2030. Dự kiến trong năm nay, vốn FDI thực hiện đạt khoảng 26-27 tỷ USD, tăng khoảng 1 tỷ USD so với năm 2024, khi đạt 25,35 tỷ USD.Từ năm 2020 đến nay, hoạt động FDI có thể khái quát là ngày càng sôi động. Nhiều tập đoàn đa quốc gia và doanh nghiệp lớn sở hữu công nghệ hiện đại đã đầu tư vào Việt Nam. Quy mô vốn và chất lượng dự án không ngừng được nâng lên, góp phần tạo việc làm và thu nhập cho người lao động, nâng cao năng lực sản xuất, tăng thu ngân sách nhà nước, ổn định kinh tế vĩ mô, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế, đổi mới mô hình tăng trưởng, đồng thời nâng cao vị thế và uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế.Theo ông Trung, sau khi Nghị quyết 68-NQ/TW về phát triển kinh tế tư nhân được ban hành, tới đây Bộ Chính trị sẽ tiếp tục ban hành hai nghị quyết tương tự đối với khu vực doanh nghiệp nhà nước và khu vực FDI. Riêng trong lĩnh vực thu hút FDI, ông cho rằng cần có sự thay đổi về tư duy chiến lược.Làm rõ quan điểm này, ông Trung nhấn mạnh rằng để phát triển nhanh và bền vững, yếu tố quyết định chính là con người, cụ thể là nguồn nhân lực chất lượng cao với kỹ năng, trình độ và năng lực vượt trội.Tuy nhiên, trong bối cảnh sản xuất 4.0, khái niệm “con người” cần được hiểu theo nghĩa rộng hơn, không chỉ giới hạn ở con người sinh học mà còn bao gồm AI, Big Data, IoT và các công nghệ hiện đại khác. Đây là lực lượng sản xuất phi sinh học có thể vận hành liên tục 24/7, không bị ràng buộc bởi thu nhập, chế độ nghỉ ngơi, cơ hội thăng tiến hay các yếu tố sức khỏe.Khi công nghệ sản xuất đã thay đổi, tư duy thu hút FDI cũng cần thay đổi tương ứng. Việc thu hút FDI không nên chỉ nhằm tiếp nhận công nghệ và quản trị hiện đại hay giải quyết việc làm. Xu hướng toàn cầu đang dịch chuyển từ mô hình doanh nghiệp sử dụng hàng vạn lao động sang mô hình “nhà máy không ánh sáng”. Đây là những nhà máy được đầu tư dây chuyền hiện đại, vận hành hoàn toàn tự động dựa trên robot, AI, IoT và CNC, tức công nghệ điều khiển tự động máy móc theo chương trình đã lập sẵn, gần như không sử dụng hoặc chỉ sử dụng rất ít lao động.Trong bối cảnh thuế tối thiểu toàn cầu được áp dụng, lợi thế về ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp đối với khu vực FDI đã suy giảm đáng kể. Việt Nam hiện đang triển khai nhiều cơ chế ưu đãi và hỗ trợ khác, đặc biệt là các chính sách miễn, giảm thuế thu nhập cá nhân dành cho chuyên gia, nhà khoa học và nhân lực chất lượng cao làm việc tại các dự án đổi mới sáng tạo, trung tâm R&D, khu vực khởi nghiệp, cũng như các dự án liên quan đến công nghệ cao, IT, khoa học và đổi mới sáng tạo.Theo ông Trung, các ưu đãi thuế này cũng có thể sớm trở nên lỗi thời. Với sự phát triển của AI, IoT và CNC trên nền tảng 5G và trong tương lai là 6G, người lao động hay chuyên gia ở bất kỳ đâu trên thế giới, dù không trực tiếp hiện diện tại Việt Nam, vẫn có thể điều hành, quản lý và giám sát các nhà máy không ánh đèn trong nước. Do đó, Việt Nam cần thay đổi tư duy thu hút FDI trong bối cảnh mới, nhằm tận dụng tối đa nguồn lực này phục vụ mục tiêu tăng trưởng GDP ở mức hai con số trong thời gian tới.
https://kevesko.vn/20251226/quy-mo-kinh-te-viet-nam-co-the-dat-1407-ty-usd-va-se-la-nen-kinh-te-lon-thu-27-the-gioi-40454362.html
https://kevesko.vn/20251224/chien-thuat-ben-bi-giup-kinh-te-viet-nam-nam-2025-thanh-cong-bat-ngo-40404757.html
https://kevesko.vn/20251222/du-bao-kinh-te-viet-nam-2026-40363307.html
https://kevesko.vn/20251217/ba-kich-ban-tang-truong-kinh-te-cua-viet-nam-trong-5-nam-toi-40243189.html
Sputnik Việt Nam
moderator.vn@sputniknews.com
+74956456601
MIA „Rossiya Segodnya“
2025
Sputnik Việt Nam
moderator.vn@sputniknews.com
+74956456601
MIA „Rossiya Segodnya“
tin thời sự
vn_VN
Sputnik Việt Nam
moderator.vn@sputniknews.com
+74956456601
MIA „Rossiya Segodnya“
https://cdn.img.kevesko.vn/img/07e9/0b/1e/39843884_91:0:639:411_1920x0_80_0_0_533d3fb65afc09fb61515038f31da80a.jpgSputnik Việt Nam
moderator.vn@sputniknews.com
+74956456601
MIA „Rossiya Segodnya“
việt nam, kinh tế, fdi, thông tin, gdp, tăng trưởng kinh tế, ai, chính trị, ngân hàng, doanh nghiệp, sản xuất, công nghệ
việt nam, kinh tế, fdi, thông tin, gdp, tăng trưởng kinh tế, ai, chính trị, ngân hàng, doanh nghiệp, sản xuất, công nghệ
Theo ông, Việt Nam không thiếu vốn. Nếu nguồn vốn được huy động đầy đủ và sử dụng hiệu quả, chỉ trong khoảng 6-7 năm tới, quy mô nền kinh tế hoàn toàn có thể chạm mốc 1.000 tỷ USD.
Tổng vốn đầu tư hàng năm phải rất lớn để tăng trưởng 2 con số
Trả lời câu hỏi về quy mô vốn đầu tư toàn xã hội cần thiết để đạt tăng trưởng hai con số, TS. Nguyễn Đức Trung dẫn số liệu cho thấy trong khoảng 15 năm trở lại đây, tổng vốn đầu tư toàn xã hội của Việt Nam chỉ dao động ở mức 32-34% GDP, trong khi tốc độ
tăng trưởng GDP trung bình chỉ đạt khoảng 6% mỗi năm. Riêng năm 2024, tỷ lệ vốn đầu tư toàn xã hội tương đương 32,1% GDP, giảm 1,2 điểm phần trăm so với năm 2023, khi đạt 33,3% GDP.
Năm nay là năm cuối cùng thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội giai đoạn 2021-2025. Theo chỉ đạo của Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ, trọng tâm là đẩy mạnh giải ngân vốn đầu tư công, hoàn thành các dự án đã nằm trong kế hoạch trung hạn, đồng thời khởi công và hoàn thiện những công trình quan trọng, thiết yếu nhằm tạo nền tảng cho mức tăng trưởng tối thiểu 10% trong 5 năm tới. Tuy nhiên, tổng vốn đầu tư toàn xã hội dự kiến vẫn chỉ đạt khoảng 33,2% GDP, tương đương khoảng 169 tỷ USD.
Theo kinh nghiệm của các nền kinh tế đi trước như Trung Quốc, Nhật Bản và Hàn Quốc, để duy trì tăng trưởng hai con số, tỷ lệ vốn đầu tư toàn xã hội tối thiểu phải đạt 36-37% GDP. Điều này đồng nghĩa với việc quy mô vốn đầu tư phải rất lớn và tăng mạnh qua từng năm.
Liên quan đến khả năng Việt Nam gia nhập “câu lạc bộ ngàn tỷ” theo mục tiêu phát triển kinh tế – xã hội tại Nghị quyết 244/2025/QH15, ông Trung cho biết năm nay, quy mô GDP dự kiến đạt khoảng 510 tỷ USD, tăng thêm 35-36 tỷ USD so với năm 2024.
Nếu giả định năm 2026 đạt mức tăng trưởng 10%, GDP sẽ tăng thêm khoảng 51 tỷ USD, lên 561 tỷ USD. Trong trường hợp
nền kinh tế tiếp tục duy trì mức tăng trưởng 10% mỗi năm, thì vào giai đoạn 2031-2032, quy mô GDP của Việt Nam sẽ đạt tối thiểu 1.000 tỷ USD. Khi đó, tổng vốn đầu tư hàng năm sẽ phải ở mức rất lớn, ước tính khoảng 360-370 tỷ USD mỗi năm.
Về câu hỏi nguồn vốn sẽ đến từ đâu, báo Đầu tư dẫn lời ông Trung khẳng định nếu các dự án đầu tư mang lại hiệu quả cao thì việc huy động vốn không phải là vấn đề. Nguồn vốn có thể được huy động thông qua thị trường chứng khoán, phát hành trái phiếu doanh nghiệp, và hệ thống ngân hàng cũng sẵn sàng cho vay. Không chỉ nguồn vốn trong nước có thể đáp ứng đầy đủ và kịp thời, mà dòng vốn gián tiếp nước ngoài cũng sẽ chảy vào thông qua việc mua cổ phiếu của doanh nghiệp niêm yết hoặc doanh nghiệp thực hiện phát hành cổ phiếu lần đầu ra công chúng.
Tuy nhiên, thực tế cho thấy việc huy động vốn của doanh nghiệp thông qua thị trường chứng khoán và phát hành trái phiếu vẫn còn rất hạn chế. Tổng số vốn huy động mỗi năm thậm chí không bằng doanh số cho vay của một ngân hàng cổ phần quy mô nhỏ, khiến doanh nghiệp buộc phải phụ thuộc quá nhiều vào vốn vay ngân hàng.
Đối với nguồn vốn đầu tư từ khu vực nhà nước, ông Trung cho rằng vẫn còn nhiều dư địa. Theo tính toán của Bộ Tài chính, đến hết năm 2025, nợ công ước khoảng 35-36% GDP, nợ Chính phủ khoảng 33-34% GDP và nợ nước ngoài vào khoảng 31-32% GDP. Trong khi đó, trần nợ công do Quốc hội thông qua là không quá 60% GDP, trần nợ Chính phủ không quá 50% GDP và trần nợ nước ngoài cũng không quá 50% GDP.
Như vậy, khi cần thiết cho đầu tư công, kể cả với những dự án có quy mô lên tới hàng chục tỷ USD, Chính phủ hoàn toàn có thể vay trong nước và nước ngoài để triển khai, với điều kiện các dự án đó phải được thực hiện hiệu quả. Bên cạnh đó,
ngân sách nhà nước những năm gần đây liên tục tăng thu và thường xuyên vượt dự toán, quy mô ngày càng mở rộng, qua đó tạo thêm nguồn lực cho đầu tư công.
Về đầu tư trực tiếp nước ngoài, ông Trung đánh giá Chính phủ đã và đang triển khai hiệu quả Nghị quyết 50-NQ/TW ban hành năm 2019 về định hướng hoàn thiện thể chế, chính sách và nâng cao chất lượng, hiệu quả hợp tác đầu tư nước ngoài đến năm 2030. Dự kiến trong năm nay, vốn FDI thực hiện đạt khoảng 26-27 tỷ USD, tăng khoảng 1 tỷ USD so với năm 2024, khi đạt 25,35 tỷ USD.
Từ năm 2020 đến nay, hoạt động FDI có thể khái quát là ngày càng sôi động. Nhiều tập đoàn đa quốc gia và doanh nghiệp lớn sở hữu công nghệ hiện đại đã đầu tư vào Việt Nam. Quy mô vốn và chất lượng dự án không ngừng được nâng lên, góp phần tạo việc làm và thu nhập cho người lao động, nâng cao năng lực sản xuất, tăng thu ngân sách nhà nước, ổn định kinh tế vĩ mô, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế, đổi mới mô hình tăng trưởng, đồng thời nâng cao vị thế và uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế.
Theo ông Trung, sau khi Nghị quyết 68-NQ/TW về phát triển kinh tế tư nhân được ban hành, tới đây Bộ Chính trị sẽ tiếp tục ban hành hai nghị quyết tương tự đối với khu vực doanh nghiệp nhà nước và khu vực FDI. Riêng trong lĩnh vực thu hút FDI, ông cho rằng cần có sự thay đổi về tư duy chiến lược.
Làm rõ quan điểm này, ông Trung nhấn mạnh rằng để phát triển nhanh và bền vững, yếu tố quyết định chính là con người, cụ thể là nguồn nhân lực chất lượng cao với kỹ năng, trình độ và năng lực vượt trội.
Tuy nhiên, trong bối cảnh sản xuất 4.0, khái niệm “con người” cần được hiểu theo nghĩa rộng hơn, không chỉ giới hạn ở con người sinh học mà còn bao gồm AI, Big Data, IoT và các công nghệ hiện đại khác. Đây là lực lượng
sản xuất phi sinh học có thể vận hành liên tục 24/7, không bị ràng buộc bởi thu nhập, chế độ nghỉ ngơi, cơ hội thăng tiến hay các yếu tố sức khỏe.
Khi công nghệ sản xuất đã thay đổi, tư duy thu hút FDI cũng cần thay đổi tương ứng. Việc thu hút FDI không nên chỉ nhằm tiếp nhận công nghệ và quản trị hiện đại hay giải quyết việc làm. Xu hướng toàn cầu đang dịch chuyển từ mô hình doanh nghiệp sử dụng hàng vạn lao động sang mô hình “nhà máy không ánh sáng”. Đây là những nhà máy được đầu tư dây chuyền hiện đại, vận hành hoàn toàn tự động dựa trên robot, AI, IoT và CNC, tức công nghệ điều khiển tự động máy móc theo chương trình đã lập sẵn, gần như không sử dụng hoặc chỉ sử dụng rất ít lao động.
Trong bối cảnh thuế tối thiểu toàn cầu được áp dụng, lợi thế về ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp đối với khu vực FDI đã suy giảm đáng kể. Việt Nam hiện đang triển khai nhiều cơ chế ưu đãi và hỗ trợ khác, đặc biệt là các chính sách miễn, giảm thuế thu nhập cá nhân dành cho chuyên gia, nhà khoa học và nhân lực chất lượng cao làm việc tại các dự án đổi mới sáng tạo, trung tâm R&D, khu vực khởi nghiệp, cũng như các dự án liên quan đến công nghệ cao, IT, khoa học và đổi mới sáng tạo.
Theo ông Trung, các ưu đãi thuế này cũng có thể sớm trở nên lỗi thời. Với sự phát triển của
AI, IoT và CNC trên nền tảng 5G và trong tương lai là 6G, người lao động hay chuyên gia ở bất kỳ đâu trên thế giới, dù không trực tiếp hiện diện tại Việt Nam, vẫn có thể điều hành, quản lý và giám sát các nhà máy không ánh đèn trong nước. Do đó, Việt Nam cần thay đổi tư duy thu hút FDI trong bối cảnh mới, nhằm tận dụng tối đa nguồn lực này phục vụ mục tiêu tăng trưởng GDP ở mức hai con số trong thời gian tới.