Đáng chú ý, dệt may Việt Nam bắt đầu chuyển dịch sang Liên bang Nga cùng một số nước khác thay vì tập trung vào các thị trường truyền thống như Mỹ, EU, Nhật Bản, Hàn Quốc…
Mỹ làm căng truy vết nguồn gốc sợi vải
Nhà chức trách Hoa Kỳ hiện đang tăng cường siết nguồn gốc sản phẩm sợi, vải, dệt may theo Đạo luật chống lao động cưỡng bức người Duy Ngô Nhĩ/Uyghurs (UFLPA).
Theo ông Võ Mạnh Hùng, Đại diện Hiệp hội Bông Mỹ (CCI) tại Việt Nam, 6 tháng đầu năm 2022, Cơ quan Hải quan Mỹ đã tạm giữ hơn 3.000 lô hàng dệt may để xác minh nguồn gốc sợi của sản phẩm.
Việc tạm giữ các lô hàng được thực hiện Đạo luật chống lao động cưỡng bức người Duy Ngô Nhĩ (UFLPA). Theo các chuyên gia, đây chỉ là một minh chứng cho thấy thị trường Hoa Kỳ ngày càng khắt khe hơn với nguồn gốc sản phẩm dệt may nhập vào Mỹ.
Ông Võ Mạnh Hùng cho biết, việc Cơ quan Hải quan Hoa Kỳ giữ hàng có thể kéo dài đến 30 ngày chờ xác minh nguồn gốc sợi vải.
“Hiện chưa thống kê được trong số đó có bao nhiêu lô hàng nhập khẩu từ Việt Nam”, đại diện Hiệp hội Bông Mỹ tại Việt Nam nói.
Tuy nhiên, do chuỗi cung ứng dệt may của Việt Nam có sự gắn bó rất chặt chẽ với Trung Quốc, nên ôngVõ Mạnh Hùng nhận định, việc này ảnh hưởng khá lớn đến các doanh nghiệp dệt may Việt xuất khẩu vào Mỹ.
Đại diện Hiệp hội Bông Mỹ (CCI) tại Việt Nam thông tin thêm, hiện nay Hiệp hội Bông Hoa Kỳ đã xây dựng hệ thống truy xuất nguồn gốc sản phẩm trên nền tảng platform, cho phép truy xuất bất cứ công đoạn nào của sản phẩm dệt may nhập khẩu vào thị trường nước này.
Rất nhiều nhãn hàng lớn trên thế giới đã tham gia vào hệ thống truy xuất trên, cùng với gần 1.000 nhà sản xuất toàn cầu, trong đó có gần 70 doanh nghiệp từ Việt Nam.
“Thậm chí, công nghệ truy xuất nguồn gốc sản phẩm dệt may vào Hoa Kỳ đã phát triển đến mức có thể xác định được chính xác vùng trồng bông của sợi vải từ một mẫu vật quần áo cũ dựa trên phân tích khoáng chất của sợ vải”, chuyên gia cảnh báo.
Do đó, theo ông Hùng, để giữ được thị trường Hoa Kỳ, các doanh nghiệp dệt may Việt Nam bắt buộc phải minh bạch chuỗi cung ứng của mình.
Việt Nam phải nhập khẩu toàn bộ bông từ nước ngoài
Ông Vũ Đức Giang, Chủ tịch Hiệp hội Dệt may Việt Nam (Vitas) cho biết, để đáp ứng nhu cầu sản xuất của ngành dệt may, Việt Nam phải nhập khẩu toàn bộ bông từ nước ngoài.
Cũng theo ông Giang, lượng nhập khẩu của Việt Nam mỗi năm ở mức khoảng 4 tỷ USD. Trong 8 tháng năm 2022, lượng bông nhập khẩu đã đạt khoảng 3 tỷ USD.
Trong đó, bông Mỹ được lựa chọn nhiều nhất, chiếm trên 50% tổng nhu cầu nhập bông của Việt Nam.
Cũng theo ông Vũ Đức Giang, nguyên liệu đầu vào của ngành dệt may Việt Nam đang phải thay đổi theo hướng xanh để đáp ứng yêu cầu của người tiêu dùng và các nước nhập khẩu. Và nguyên liệu đầu vào là then chốt của việc chuyển đổi xanh này.
“Việt Nam hiện là thị trường nhập khẩu số 1 mặt hàng bông của Hoa Kỳ. Tuy nhiên, những tháng gần đây thị trường bông toàn cầu biến động đến mức “đột biến” về giá cả khiến cho doanh nghiệp Việt Nam gặp rất nhiều khó khăn”, chuyên gia bày tỏ.
Đại diện CCI tại Việt Nam Võ Mạnh Hùng cho hay, từ tháng 8, giá bông biến động “lên, xuống” đến 30%.
Cùng với đó, sự bất thường của thị trường bông toàn cầu và những tiêu chuẩn khắt khe của thị trường Hoa Kỳ về nguồn gốc sản phẩm may mặc sẽ là một trong những nội dung chính được thảo luận tại Ngày hội Bông Việt Nam - Cotton Day Việt Nam 2022 được tổ chức tại TP. Hồ Chí Minh vào ngày 4/10/2022.
Ngày hội Bông Việt Nam - Cotton Day Việt Nam 2022 được kỳ vọng trở thành sự kiện quan trọng, mang tới các giải pháp trong phát triển bền vững và truy xuất nguồn gốc xuất xứ cho doanh nghiệp dệt may Việt Nam, đáp ứng xu thế của thế giới.
Ngành dệt may Việt Nam bắt đầu ngấm đòn
Không chỉ chịu ảnh hưởng từ việc siết chặt nguồn gốc sợi vải của Mỹ, ngành dệt may đã bắt đầu có dấu hiệu ngấm đòn bởi lạm phát và suy thoái kinh tế toàn cầu.
Điều này được phản ánh qua kim ngạch xuất khẩu trong tháng 9 đã giảm gần 1,2 tỷ USD so với tháng 8/2022. Theo số liệu của Tổng cục Thống kê thì đây là tháng có kim ngạch xuất khẩu thấp nhất của ngành dệt may kể từ tháng 3 đến nay. Còn nếu không tính tháng 2 bị ảnh hưởng bởi kỳ nghỉ Tết Nguyên đán thì đây sẽ là tháng có kim ngạch xuất khẩu thấp nhất kể từ tháng 11/2021.
Đồng thời, hiện số lượng đơn đặt hàng của các doanh nghiệp trong ngành đang sụt giảm và tình hình khó khăn được dự báo có thể kéo dài sang cả năm 2023, theo các chuyên gia trong ngành.
Theo ông Vũ Đức Giang, Chủ tịch Hiệp hội Dệt may Việt Nam, nửa đầu năm 2022 xuất khẩu dệt may tăng trưởng tương đối tốt. Tuy vậy bước vào quý III/2022 thị trường bắt đầu có dấu hiệu sụt giảm đơn hàng.
Theo ông Giang, điều này xuất phát từ các thị trường lớn của hàng dệt may Việt Nam là Mỹ và EU lạm phát cao khiến người dân hạn chế chi tiêu đáng kể, trong đó may mặc là mặt hàng được cắt giảm chi tiêu nhiều.
Bên cạnh đó, các thị trường là đối tác thương mại quan trọng của Việt Nam như Trung Quốc, Nhật Bản, Đài Loan (Trung Quốc) vẫn đang áp dụng các biện pháp nghiêm ngặt chống dịch, làm ảnh hưởng không nhỏ đến chuỗi cung ứng nguyên, phụ liệu và tiêu thụ sản phẩm dệt may của Việt Nam.
Đáng chú ý, theo ông Giang, tình trạng yêu cầu truy xuất nguồn gốc bông, vải, sợi hay xanh hóa dệt may từ các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới cũng là những thách thức mà doanh nghiệp dệt may Việt Nam đang phải đối mặt.
Dệt may Việt Nam bắt đầu chuyển dịch sang Nga
Dù vậy, ông Vũ Đức Giang cho biết, sau 9 tháng, kim ngạch xuất khẩu ngành vẫn đạt con số ấn tượng với khoảng 35 tỷ USD, tăng 21% so với cùng kỳ năm ngoái.
Theo ông Giang, trên thực tế, các doanh nghiệp dệt may Việt Nam đã và đang nỗ lực mở rộng, đa dạng hoá thị trường.
Cụ thể, xuất khẩu dệt may của Việt Nam không chỉ phụ thuộc vào 5 thị trường truyền thống như trước đây là Mỹ, châu Âu, Nhật Bản, Hàn Quốc và Trung Quốc, mà bắt đầu là chuyển dịch sang Nga và một số nước khác.
Trong bối cảnh những đơn hàng truyền thống như đồ jean, kaki các loại hoặc đồ thun đều bị thiếu đơn hàng, thậm chí có những doanh nghiệp thiếu trên 35%. Các doanh nghiệp Việt Nam đã thích ứng rất nhanh.
“Các doanh nghiệp này bắt đầu chuyển dịch từ hàng dệt kim sang hàng dệt thoi một cách rất nhanh chóng”, ông Giang nói.
Ngoài ra, các doanh nghiệp ngành dệt may Việt cũng thích ứng rất nhanh khi chuyển dịch đầu tư vào công nghệ và tự động hóa và thích ứng được khi cơ cấu mặt hàng có thay đổi.
Bên cạnh đó, khi đối mặt với tình trạng đơn hàng giảm, doanh nghiệp đã sắp xếp lại giờ làm. Theo đó không tổ chức tăng ca, làm thêm giờ mà chỉ làm theo giờ hành chính hoặc giảm số ngày làm việc trong tuần để đảm bảo việc ổn định cho người lao động.
Đặc biệt, đối với thị trường EU, nếu như trước đây dệt may Việt Nam chỉ tập trung vào một số nước lớn như Đức, Pháp, Tây Ban Nha, Anh, thì nay đã xuất khẩu vào 26/27 quốc gia ở EU. Ngoài ra, nhiều doanh nghiệp đã chủ động chuyển dịch tầm nhìn, mô hình hoạt động sang các nước như châu Phi, Mexico, Mỹ Latin.
“Tôi tin rằng trong thời gian tới doanh nghiệp may vẫn thích ứng được, dù rằng quý IV này sẽ khó khăn, thậm chí khó khăn còn có thể kéo dài đến quý I/2023”, ông Vũ Đức Giang nêu nhận định.