Do đó, Việt Nam cần đẩy nhanh xây dựng kinh tế độc lập, tự chủ, gắn quá trình thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá với xây dựng nền kinh tế, quốc gia độc lập dựa trên nội lực của đất nước, coi nội lực là quyết định.
Việt Nam thành nước đang phát triển có thu nhập trung bình
Sáng 6/12, Trưởng Ban Kinh tế Trung ương Trần Tuấn Anh đã truyền đạt nghị quyết “Tiếp tục đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045” tại Hội nghị nghiên cứu, quán triệt nghị quyết Hội nghị trung ương 6 khóa XIII với nhiều lưu ý quan trọng.
Đánh giá tình hình thực hiện công nghiệp hóa - hiện đại hóa trong 10 năm qua, ông Trần Tuấn Anh cho biết, Nghị quyết số 29 đã khái quát thành 9 kết quả đạt được rất quan trọng.
Thứ nhất, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đã thúc đẩy tăng trưởng kinh tế ở mức cao, đạt bình quân 6,17%/năm trong 10 năm qua, chất lượng tăng trưởng được cải thiện, quy mô nền kinh tế tăng nhanh, đưa Việt Nam trở thành nước đang phát triển có thu nhập trung bình.
Thứ hai, cơ cấu kinh tế và cơ cấu lao động chuyển dịch tích cực với tỉ trọng đóng góp vào GDP của công nghiệp và dịch vụ đạt 72,7% vào năm 2020. Thứ ba, công nghiệp được cơ cấu lại theo hướng giảm tỷ trọng của ngành khai khoáng, tăng nhanh tỷ trọng ngành công nghiệp chế biến, chế tạo, phù hợp với mục tiêu phát triển bền vững.
Thứ tư, công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn thúc đẩy tăng trưởng ngành nông nghiệp ổn định và bền vững, từng bước được cơ cấu lại theo hướng hiện đại. Thứ năm, ngành dịch vụ phát triển mạnh, theo hướng hiện đại, đóng góp của ngành dịch vụ vào tăng trưởng kinh tế ngày càng tăng; hình thành được một số ngành dịch vụ có hàm lượng khoa học, công nghệ cao.
Đồng chí Trần Tuấn Anh truyền đạt chuyên đề “Tiếp tục đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045”.
© Ảnh : TTXVN - Nguyễn Phương Hoa
Các phương thức, mô hình kinh doanh trên thị trường xuất hiện, được đổi mới theo hướng văn minh hiện đại, phù hợp với quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Việt Nam trở thành một trong những thị trường bán lẻ hấp dẫn nhất toàn cầu, đứng vị trí thứ 6 trong nhóm 30 quốc gia có tiềm năng và mức độ hấp dẫn đầu tư trong lĩnh vực bán lẻ toàn cầu.
Thứ sáu, đô thị hóa tăng nhanh, không gian đô thị được mở rộng, trở thành động lực quan trọng thúc đẩy phát triển kinh tế-xã hội. Thứ bảy, hệ thống kết cấu hạ tầng kỹ thuật, hạ tầng kinh tế-xã hội được quan tâm đầu tư theo hướng ngày càng đồng bộ, hiệu quả hơn, chất lượng được nâng cao, tạo không gian phát triển, thúc đẩy liên kết ngành và liên kết vùng, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Thứ tám, phát triển văn hóa, xã hội, con người trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa được quan tâm; đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân không ngừng được cải thiện.
Thứ chín, quản lý tài nguyên, bảo vệ môi trường và thích ứng với biến đổi khí hậu được chú trọng, bước đầu đạt kết quả tích cực. Việt Nam đã và đang trở thành thành viên có trách nhiệm, nỗ lực tham gia góp phần tích cực với cộng đồng quốc tế trong ứng phó với biến đổi khí hậu.
Vì sao chưa đạt mục tiêu?
Nói về hạn chế, Trần Tuấn Anh cho biết, bên cạnh những kết quả đạt được, Trung ương Đảng cũng đã thẳng thắn chỉ ra những hạn chế trong quá trình thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam giai đoạn vừa qua, trong đó, đáng lưu ý nhất là việc chưa thể đưa Việt Nam trở thành nước công nghiệp hiện đại vào năm 2020.
“Mục tiêu trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020 đã không hoàn thành”, ông Trần Tuấn Anh thừa nhận.
Phân tích cụ thể về hạn chế, Trưởng ban Kinh tế Trung ương cho biết, thứ nhất là hàng loạt các tiêu chí không đạt được từ GDP bình quân đầu người, tỷ trọng công nghiệp chế tạo và tỷ trọng nông nghiệp trong GDP cho tới tỷ lệ lao động qua đào tạo, tỷ lệ dân số sử dụng nước sạch.
Trong đó, thu nhập bình quân đầu người tăng trên 25%, đạt khoảng 3.517,4 USD nhưng vẫn nằm trong nhóm nước đang phát triển có thu nhập trung bình thấp.
Bên cạnh đó, tăng trưởng kinh tế không đạt mục tiêu đề ra, tốc độ có xu hướng giảm dần theo chu kỳ 10 năm.
“Nguy cơ rơi vào bẫy thu nhập trung bình, tụt hậu là nhãn tiền”, Trưởng ban Kinh tế Trung ương Trần Tuấn Anh lưu ý.
Hạn chế tiếp theo được ông Trần Tuấn Anh chỉ ra, đó là, nội lực kinh tế Việt Nam còn yếu, năng suất lao động thấp và chậm được cải thiện, năng lực độc lập, tự chủ thấp, phụ thuộc nhiều vào khu vực có vốn đầu tư nước ngoài.
Bối cảnh phức tạp của thế giới thời gian qua cho thấy các nước đang phát triển như Việt Nam đang chịu tác động tiêu cực, chưa nói tới cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4. Do đó, yêu cầu xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ là vô cùng quan trọng, đảm bảo thành công của Việt Nam trong phát triển.
Ngoài ra, khu vực kinh tế tư nhân trong nước chưa đáp ứng được vai trò là một động lực quan trọng thúc đẩy công nghiệp hoá, hiện đại hóa.
“Doanh nghiệp nhà nước còn nhiều hạn chế, đổi mới và nâng cao hiệu quả kinh tế tập thể còn nhiều khó khăn”, ông Trần Tuấn Anh nói.
Hạn chế khác là việc đô thị hóa chưa gắn kết chặt chẽ và đồng bộ với công nghiệp hóa, hiện đại hóa khi chất lượng đô thị hóa chưa cao, phát triển đô thị theo chiều rộng là chủ yếu, gây lãng phí về đất đai; chất lượng hạ tầng đô thị chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển dân số và kinh tế.
“Đô thị hóa tại Việt Nam đang ảnh hưởng rất lớn tới đời sống người dân, không chỉ hạ tầng giao thông mà hạ tầng thoát nước cũng nhiều bất cập", Trưởng ban Kinh tế Trung ương thẳng thắn.
“Gai quả mít”
Bàn về giải pháp, ông Trần Tuấn Anh cho biết, Trung ương Đảng đặt ra 10 nhóm nhiệm vụ giải pháp, trong đó nhấn mạnh đổi mới tư duy, nhận thức và hành động quyết liệt tiếp tục đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, trước hết là phải giải quyết bằng được các điểm nghẽn, cản trở quá trình phát triển.
Trong 10 nhóm nhiệm vụ giải pháp chủ yếu, Việt Nam cũng hướng đến xây dựng nền công nghiệp quốc gia vững mạnh, tự lực, tự cường; nâng cao năng lực ngành xây dựng; đẩy nhanh công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn; tiếp tục cơ cấu lại ngành dịch vụ dựa trên nền tảng khoa học - công nghệ, đổi mới sáng tạo.
Đất nước cũng định hướng phát triển khoa học - công nghệ, đổi mới sáng tạo và nguồn nhân lực chất lượng cao đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Phát triển kết cấu hạ tầng đồng bộ, hiện đại; thúc đẩy đô thị hoá nhanh và bền vững, gắn kết chặt chẽ và tạo động lực cho công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Nhà nước cũng sẽ đổi mới chính sách tài chính, tín dụng thúc đẩy công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước nhanh, bền vững. Đồng thời, quản lý, sử dụng hiệu quả, tiết kiệm tài nguyên, bảo vệ môi trường, chủ động thích ứng với biến đổi khí hậu; tăng cường hội nhập quốc tế sâu rộng, hiệu quả đi đôi với bảo vệ và phát triển thị trường trong nước.
Đặc biệt, theo ông Trần Tuấn Anh, sẽ phát huy giá trị văn hoá, bản lĩnh, trí tuệ con người Việt Nam, xây dựng giai cấp công nhân hiện đại, lớn mạnh.
Bàn về việc rà soát hoàn thiện chính sách khuyến khích phát triển các ngành công nghiệp nền tảng, công nghiệp ưu tiên, công nghiệp mũi nhọn ở Việt Nam, ông Trần Tuấn Anh lưu ý:
“Công nghiệp mũi nhọn sẽ không theo hướng ưu đãi theo diện rộng, dàn trải như cái gai của quả mít như trước đây. Thay vào đó, sẽ tập trung vào các lĩnh vực được xác định theo tiêu chí phù hợp cho từng giai đoạn”.
Tự lực, tự cường “Make in Vietnam”
Theo Trưởng Ban Kinh tế Trung ương Trần Tuấn Anh, Trung ương đã phân tích, đánh giá và thống nhất cao cần tập trung xây dựng và triển khai Chương trình quốc gia về nâng cao năng lực độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường của nền sản xuất Việt Nam đến năm 2045 (Make in Vietnam 2045); Chương trình phát triển công nghiệp hỗ trợ đến năm 2030.
Về nghị quyết, Trung ương Đảng cũng đã chỉ rõ các ngành, lĩnh vực cần ưu tiên nguồn lực và có các cơ chế, chính sách khuyến khích và ưu đãi đủ mạnh để phát triển, tránh dàn trài.
Trong đó, đối với các ngành công nghiệp nền tảng, Việt Nam sẽ tập trung vào ngành: Luyện kim (ưu tiên phát triển thép hợp kim, thép đặc chủng phục vụ công nghiệp chế tạo máy thế hệ mới, nhất là cho quốc phòng, an ninh); Cơ khí chế tạo (ưu tiên phát triển cơ khí chế tạo cho sản xuất máy nông nghiệp, ô tô, tàu biển, thiết bị công trình, thiết bị năng lượng, thiết bị điện, thiết bị y tế); Hoá chất (ưu tiên phát triển các loại hoá chất cơ bản, hoá dầu, hoá dược, phân bón); Công nghiệp năng lượng (ưu tiên phát triển công nghiệp năng lượng tái tạo, năng lượng mới); Vật liệu (ưu tiên phát triển vật liệu mới); Công nghệ số (ưu tiên phát triển trí tuệ nhân tạo, dữ liệu lớn, chuỗi khối, điện toán đám mây, Internet vạn vật, thiết bị điện tử - viễn thông, thiết kế và sản xuất chip bán dẫn).
Đồng thời, sẽ ưu tiên các ngành công nghiệp sản xuất rô bốt, ô tô, thiết bị tích hợp vận hành tự động, điều khiển từ xa; công nghiệp chế biến, chế tạo phục vụ nông nghiệp; công nghiệp sinh học (tập trung vào gen, dược phẩm và các chế phẩm sinh học); công nghiệp dệt may, da giày ở các khâu tạo giá trị gia tăng cao dựa trên quy trình sản xuất thông minh, tự động hoá; công nghiệp văn hoá.
Việt Nam cũng sẽ chú trọng phát triển công nghiệp quốc phòng, công nghiệp an ninh theo hướng lưỡng dụng, hiện đại, tự lực, tự cường, liên kết chặt chẽ với công nghiệp dân sinh, trở thành mũi nhọn của công nghiệp quốc gia.
Khi nào Việt Nam thành nước công nghiệp hiện đại?
Nghị quyết 29 xác định nội dung cốt lõi của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước theo 2 giai đoạn:
Giai đoạn 2021 - 2030 là thúc đẩy ứng dụng mạnh mẽ khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo, nhất là thành tựu của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư để tạo ra sự bứt phá về năng suất, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của các ngành, lĩnh vực và cả nền kinh tế; thực hiện chuyển đổi số toàn diện, thực chất, hiệu quả, bền vững; nâng cao năng lực tự chủ về sản xuất, công nghệ và thị trường, bảo vệ và phát huy tốt thị trường trong nước; chuyển dịch cơ cấu nội ngành công nghiệp sang các ngành có tính nền tảng, ưu tiên, mũi nhọn, có hàm lượng công nghệ và giá trị gia tăng cao.
Giai đoạn 2031 - 2045, tập trung nâng cao chất lượng công nghiệp hoá và đẩy mạnh hiện đại hoá toàn diện trên tất cả các lĩnh vực của nền kinh tế và đời sống xã hội.
Nghị quyết 29 Hội nghị Trung ương 6 khóa XIII đặt mục tiêu đến năm 2030, Việt Nam đạt tốc độ tăng trưởng GDP bình quân khoảng 7%/năm; GDP bình quân đầu người theo giá hiện hành đạt khoảng 7.500 USD; GNI bình quân đầu người theo giá hiện hành đạt trên 7.000 USD.
Đến 2030 sẽ hình thành được một số tập đoàn, doanh nghiệp công nghiệp trong nước có quy mô lớn, đa quốc gia, có năng lực cạnh tranh quốc tế trong các ngành công nghiệp nền tảng, công nghiệp ưu tiên, công nghiệp mũi nhọn. Cùng với đó, Việt Nam cũng sẽ xây dựng được ngành công nghiệp quốc phòng, công nghiệp an ninh tự lực, tự cường, lưỡng dụng, hiện đại.
Tỷ trọng kinh tế số đạt khoảng 30% GDP. Hoàn thành xây dựng chính phủ số, thuộc nhóm 50 quốc gia hàng đầu thế giới và xếp thứ 3 trong khu vực ASEAN về chính phủ điện tử, kinh tế số.
Tầm nhìn đến năm 2045, Trung ương Đảng nêu rõ mục tiêu Việt Nam trở thành nước phát triển, có thu nhập cao, thuộc nhóm các nước công nghiệp phát triển hàng đầu khu vực châu Á.