Trong bảy thập kỷ tồn tại Ban tiếng Việt trên Đài phát thanh Matxơva, sau đó là Đài tiếng nói nước Nga và bây giờ là Sputnik, hai nhân viên đã được tặng thưởng Huân chương Hữu nghị, bốn nhân viên - Huy chương Hữu nghị. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tặng Đại sứ Liên Xô đầu tiên tại Hà Nội một trong những vật báu hiếm có là đồng xu vàng do Việt Nam Dân chủ Cộng hòa phát hành năm 1948 với tên gọi không phải là tiền "đồng" mà là "Việt". Những đồng tiền này được đúc với số lượng rất nhỏ để tặng cho những người Việt Nam và người nước ngoài có công với cách mạng Việt Nam. Đồng xu này được đánh đồng với phần thưởng cao nhất của đất nước.
Tuy nhiên, các vật phẩm đặc biệt do Nhà nước đặt ra cũng đã tồn tại ở Việt Nam dưới chế độ phong kiến. Có bất kỳ người Nga nào được trao tặng những phần thường này không? Cho đến nay, chúng ta có thể nói rằng bá tước Vyazemsky là người Nga đầu tiên được nhận tặng thưởng của nhà nước Việt Nam. Konstantin Vyazemski sinh năm 1853, từ khi còn trẻ, ông thích đi du lịch và thích nhất là đi du lịch trên lưng ngựa, coi đây là cách duy nhất để tìm hiểu đất nước và nhìn thấy những thứ nguyên bản. Bá tước sống trên đời 52 năm, thì có 16 năm ông dành cho những chuyến đi khắp nước Nga, châu Á, châu Âu và châu Phi. Bá tước đã cưỡi ngựa vượt qua hơn 300.000 km, tức là bằng 8 lần vòng quanh Trái đất theo đường xích đạo.
Thời gian cuối đời, Bá tước trở thành tu sĩ và chọn lối sống ẩn dật trong tu viện. Trong các chuyến du lịch của mình, Vyazemsky ghi nhật ký đều đặn. Đến nay chỉ có hai cuốn nhật kỹ được lưu giữ: "Hành trình đến Ma-rốc" và cuốn nhận ký khiến chúng ta đặc biệt hài lòng "Hành trình vòng quanh châu Á trên lưng ngựa".
Vyazemski khởi đầu cuộc hành trình này vào năm 1891. Bá tước chỉ có một người hầu là một cựu quân nhân. Ông cưỡi ngựa vượt qua 46.000 km xuyên Mông Cổ, Trung Hoa, Việt Nam, Campuchia, Lào, Xiêm và Ấn Độ. Trên chặng đường ấy ông đã không chỉ một lần gặp khó khăn nguy hiểm: vị lữ khách Nga mấy lần bị tấn công, hai lần bị cướp, trúng thương ở vai và chân, bị bắt làm tù binh với hai tuần lễ sống trong cảnh giam hãm, lên cơn sốt cao đến kiệt sức.
Cưỡi ngựa xuyên Việt
Ngày 14 tháng Ba năm 1892, bá tước người Nga đặt chân lên đất Việt. Tại đồn binh Đồng Đăng, cách biên giới Trung Quốc 6 km, du khách Nga đã gặp một viên sĩ quan Pháp và những binh lính người Việt. Vyazemsky ngạc nhiên khi nhìn thấy rằng, trong trại quân có cả những người vợ lính cùng sống ở khu gia binh và đám phụ nữ cũng phải tuân thủ kỷ luật nhà binh giống như ông chồng của họ: phải đứng nghiêm trước mặt sĩ quan, nếu có hành vi phạm lỗi nào đó thì vợ lính cũng chịu phạt giam hoặc bị đánh bằng hèo tre.
Ở Lạng Sơn, Bá tước Vyazemski đã nhìn thấy những binh sĩ người Âu từ đội quân Lê dương. Vyazemski nhận xét rằng, trong lính Lê dương có người Đức, người Ý, và thậm chí cả những người Nga lưu vong. Trong số những người gặp ông ở Lạng Sơn có cả một viên quan, người đứng đầu thành phố, ông đã tặng vị khách Nga chiếc khăn lụa kèm theo lời chúc mừng và một hộp pháo. Bá tước ghi trong nhật ký, "pháo là một phát minh địa phương của Việt Nam, và chúng được sử dụng trong tất cả các dịp long trọng, đặc biệt là trong các buổi chiêu đãi danh dự. Từ Việt Nam, pháo đến Trung Quốc, và người châu Âu đã mượn pháo từ người Trung Quốc". Cũng ở Lạng Sơn, bá tước thích thú đến thăm nhà hát địa phương, nơi hầu hết các tiết mục trên sân khấu đều diễn cảnh kháng chiến chống quân xâm lược Trung Hoa mà những người Việt Nam luôn giành chiến thắng.
Con đường tiếp bước viễn du của Vyazemski chạy qua Hà Nội và Nam Định, Ninh Bình và Thanh Hóa, Vinh và Quảng Trị, Huế, Đà Nẵng và Sài Gòn, cuối cùng hoàn thành vào tháng Bảy năm 1892. Ông đã ở Việt Nam trong vòng bốn tháng liền và cưỡi ngựa rong ruổi từ Bắc tới Nam. Bá tước người Nga mô tả hệ động thực vật, khoáng sản, cơ cấu hành chính trong nước, các truyền thống dân tộc và phong tục của người dân. Ông đã chia sẻ ấn tượng về các tiết mục ca nhạc và sân khấu bản địa, lược thuật các chủ đề kịch hát của Việt Nam. Ông thậm chí còn đưa đính chính vào bản đồ của Tổng hành dinh Pháp ở Việt Nam, xác định đúng đắn khỏang cách từ Thanh Hóa đến Vinh. Trong nhật ký của bá tước Nga có nhiều trang dành mô tả diện mạo, trang phục và phong cách lễ tân của đại diện chính quyền Việt Nam mà ông có dịp gặp gỡ và cùng trò chuyện. Vyazemsky đã ghi lại những chi tiết nhỏ nhất. Ví dụ, ông mô tả chuyến đi vào một khu rừng rậm đã để lại ấn tượng mạnh. Đọc những trang này, chúng ta thấy qua con mắt của bá tước những con chim và côn trùng, động vật và cây cối, nông dân địa phương và các linh mục Công giáo Việt Nam nói tiếng Latinh.
Nhân tiện, khi biết về ý định của bá tước đi sâu vào rừng rậm, những người Pháp bắt đầu can ngăn ông bằng mọi cách có thể, cảnh báo về nhiều mối nguy hiểm khác nhau. Bá tước trả lời: "Chính điều nguy hiểm thu hút tôi nhất".
Gặp vua Thành Thái
Một trong những trang thú vị nhất cuốn nhật ký lữ hành của bá tước Vyazemsky kể về chuyện ông đã ở trong kinh đô Việt Nam như thế nào. Đây quả là một cuộc điều tra thực sự về kinh kỳ Huế vào thời điểm đó. Thành phố này được tác giả mô tả trong các khía cạnh khác nhau: kiến trúc, chính trị, hành chính, lịch sử, văn hóa và xã hội. Bá tước đặc biệt ngưỡng mộ lăng tẩm của các hoàng đế. Vyazemsky mô tả chi tiết các cụm công trình kiến trúc, và lấy làm tiếc rằng “các ngôi mộ trong tình trạng đổ nát và được chăm sóc kém, gạch đá lở tứ bề, sân lăng đầy rác”.
Sau khi biết bá tước Nga đến Huế, ông được mời đến gặp vua Thành Thái. Và đây là những gì mà ông Vyazemsky đã viết về chuyện đó:
"Hoàng đế Việt Nam, một cậu bé mười lăm tuổi, sống gần như một tù nhân trong cung điện của mình. Ngài lên ngôi thay anh trai của mình, đã bị người Pháp đày đi Algeria vì bất tuân phục".
Vyazemsky mô tả tỷ mỷ cung điện vua Thành Thái, những người trong Hoàng gia và giới cận thần, tiệc yến mà nhà vua thết đãi bá tước Nga, các bản nhạc được chơi trong khi ăn, những tiết mục trên sân khấu tiếp theo đó.
Nhà vua đã ban cho vị khách Nga nhiều món quà tặng, trong đó có hai chiếc quạt lớn bằng lông công có tay cầm bằng ngà và chiếc ô sang trọng. Nhà vua cũng thưởng cho bá tước Vyazemsky hai huy chương dân sự và quân sự Việt Nam cao quý nhất, cùng với mười huy chương ý nghĩa thấp hơn. Vì vậy, chúng ta có thể nói rằng, bá tước Vyazemsky là người Nga đầu tiên được nhận tặng thưởng của nhà nước Việt Nam.
Bá tước không hề gặp sự cố gì trên đất Việt
Trong nhật ký của mình, bá tước lưu ý rằng, ở Việt Nam, ông không hề gặp sự cố gì nghiêm trọng. Ở khắp nơi mọi người, cả dân địa phương, cả nhà cai trị Pháp, đều đón tiếp lữ khách Nga một cách niềm nở. Có thể nguyên nhân của sự hanh thông này là bởi trước đó một năm ở Việt Nam đã diễn ra cuộc thăm viếng thành công của Thái tử Nikolai kế vị ngai vàng Hoàng đế Nga.
Từ Huế, bá tước Nga cưỡi ngựa đến Đà Nẵng. Trong nhật ký của mình, ông lưu ý rằng, từ thành phố này người Pháp đã thâm nhập rộng rãi ra khắp Đông Dương. Bá tước phân tích giá trị kinh tế của cảng Đà Nẵng và liệt kê các sản phẩm của Việt Nam được xuất khẩu qua cảng này đến các nước khác. Bá tước Vyazemsky lưu ý đến số lượng lớn người Âu ở thành phố này và sự Âu hoá mạnh mẽ ở Đà Nẵng. "Ngay cả vợ con các quan lại Việt Nam cũng tán chuyện với nhau bằng tiếng Pháp và mặc trang phục châu Âu". Trong vùng ngoại ô Tây Ninh, ông Vyazemsky leo núi Bà Đen, từ trên đỉnh núi cao ngắm nhìn "vẻ ngoạn mục đáng yêu của đất nước". Ông cũng tham gia một nghi lễ tôn giáo tại ngôi chùa trên núi.
Đối với vị du khách người Nga, trước đó đã đến thăm hàng chục quốc gia châu Á, Sài Gòn là thành phố văn minh nhất Viễn Đông và cũng là thành phố Âu hóa nhất mà ông thấy ở châu Á. Bá tước rất khâm phục Vườn bách thảo địa phương. Ông lưu ý trong nhật ký của mình "Khu vườn này nổi tiếng khắp Đông Dương". Trong Chợ Lớn, bá tước Nga chú ý đến "sự pha trộn giữa châu Âu với các yếu tố châu Á. Người người ai cũng mải mê buôn bán. Tất cả các con sông nườm nượp tàu thuyền chở gạo". Du khách Nga kinh ngạc thấy rằng, trong Chợ Lớn người ta công khai bào chế, buôn bán thuốc phiện, thậm chí đưa vào sản xuất công nghiệp. Lên án chính quyền Pháp, ông Vyazemsky cáo buộc người Pháp "vô đạo đức hoàn toàn" trong vấn đề này.
Vyazemsky lưu ý: "Hơn ai hết, người Pháp nhận thức được tác hại của thuốc phiện. Xét cho cùng, ở chính nước Pháp, việc sử dụng loại thuốc này bị nghiêm cấm. Nhưng, niềm đam mê lợi nhuận lớn đến mức, trái với lẽ thường và mọi tình cảm của con người, chính nhà nước lại tham gia vào việc phân phối thuốc phiện ở đây! Làm sao một quốc gia văn minh lại có thể tiêu diệt con người?"
Du khách người Nga cũng ngạc nhiên trước điều kỳ lạ, như ông viết, "sự thiển cận của các quan chức chính phủ". Ông lưu ý, ai cũng biết tác hại của thuốc phiện, người sử dụng thuốc phiện mất khả năng lao động, anh ta trở nên lười biếng, thờ ơ, không thể làm việc, cho đến khi thuốc phiện giết chết anh ta hoàn toàn. Các quan chức Pháp hiểu rằng, thuộc địa của họ ở Việt Nam chỉ có thể phát triển dựa trên sức lao động của cư dân địa phương. Đồng thời, bằng cách gieo rắc thuốc phiện độc hại, chúng tiêu diệt mọi năng lực của dân chúng, người dân địa phương trở nên yếu ớt và ốm yếu, mất khả năng lao động. Người Pháp mất nhiều hơn những gì kiếm được từ việc buôn bán thuốc phiện, hơn nữa, họ quay lưng lại với chính mình, toàn bộ bộ phận cư dân hợp lý, những người hiểu được hậu quả khủng khiếp của việc hút thuốc phiện.
Sau khi rời Sài Gòn tháng 7 năm 1892, bá tước Nga tiếp tục cuộc hành trình của mình qua Campuchia, Xiêm La, Miến Điện. Ông sống ba tháng ở Ấn Độ và sau đó qua dãy Himalaya, Tây Tạng, Trung Á, Ba Tư và Kavkaz trong năm 1894, rồi trở về St. Petersburg. Nhật ký lữ hành của bá tước Vyazemsky kể về chuyến đi Việt Nam đã được xuất bản tại Matxcơva 122 năm sau.