Để phát triển công nghiệp quốc phòng thành ngành mũi nhọn, Việt Nam cũng nỗ lực thu hút nhân tài, các nhà khoa học giỏi, những người từng làm việc cho Lockheed Martin, Boeing, Airbus về cống hiến cho đất nước.
Tìm người giỏi về công nghệ lõi
Chiều 8/11, Quốc hội thảo luận tại tổ về dự án luật Công nghiệp quốc phòng, an ninh và Động viên công nghiệp.
Phát biểu góp ý về dự thảo luật, ĐBQH Dương Khắc Mai (đoàn Đắk Nông) cho biết, từ những diễn biến phức tạp của các cuộc xung đột quốc tế hiện nay, nhiệm vụ bảo vệ đất nước cho thấy, dự án luật có vai trò rất cần thiết.
“Từ bom ba càng đến tên lửa đánh chặn máy bay B-52 trên bầu trời Hà Nội trong những năm chiến tranh ác liệt, rồi máy bay không người lái mà Viettel chế tạo mới đây, đều là những bước tiến quan trọng”, Thanh Niên dẫn lời vị đại biểu cho biết.
Ông Dương Khắc Mai nhấn mạnh, dự thảo luật nhằm mục tiêu đưa Việt Nam trở thành quốc gia có nền công nghiệp quốc phòng phát triển trước mắt và dài hạn, đảm bảo cho an ninh quốc gai, bảo vệ lãnh thổ và thực hiện khát vọng hùng cường.
Đánh giá về dự thảo luật, ĐBQH Hoàng Anh Công (đoàn Thái Nguyên) cho rằng, cần có chính sách thu hút nhân lực là các nhà khoa học không phải sĩ quan đang làm việc tại các viện, các cơ sở nghiên cứu trong và ngoài nước.
“Đây là những người rất giỏi về công nghệ lõi và công nghệ nền”, vị ĐBQH lưu ý.
ĐBQH cho rằng, Việt Nam cần phải có cơ chế, chính sách thu hút những nhân tài này. Dự án luật cũng nêu vấn đề này nhưng chưa thể hiện rõ để nhà khoa học tâm huyết muốn phục vụ, phát triển công nghiệp quốc phòng, do đó, ông Mai đề nghị dự thảo luật cần làm rõ hơn về chính sách trên.
Ông Hoàng Anh Công cho hay, với các nhà khoa học đầu ngành, ngoài cơ chế lương bổng, đãi ngộ thì cần có cơ chế bảo vệ như chế độ bảo vệ yếu nhân.
“Một nhà khoa học "không đơn giản", khi trong triệu người mới có một người, đây là nhân tài nên phải có bảo vệ để công nghiệp phát triển bền vững”, ĐBQH đoàn Thái Nguyên nói.
Dần tự chủ sản xuất vũ khí, không phụ thuộc nhập khẩu
Phát biểu thảo luận tại tổ, Bộ trưởng Quốc phòng, Đại tướng Phan Văn Giang cho biết, có sự ràng buộc giữa công nghiệp quốc phòng và công nghiệp an ninh trong dự án luật.
Nhắc lại sự cần thiết phải xây dựng luật, Bộ trưởng cho biết, trước đây Việt Nam đã có Pháp lệnh về công nghiệp quốc phòng (năm 2008), Pháp lệnh về động viên công nghiệp (năm 2003) nhưng chưa có chế tài nào về công nghiệp an ninh ngoài Nghị định 63 năm 2020 của Chính phủ.
Theo Bộ trưởng, dự án luật nêu rõ những gì công nghiệp quốc phòng làm được thì công nghiệp an ninh kế thừa và sử dụng. Còn những gì công nghiệp quốc phòng chưa làm, chưa nghiên cứu được mà công nghiệp an ninh nghiên cứu được thì công nghiệp quốc phòng cũng không đầu tư, nghiên cứu vào lĩnh vực đó.
Sách trắng Quốc phòng Việt Nam năm 2019 khẳng định quan điểm chính sách quốc phòng “4 không” với tất cả các nước, với quan điểm là hiện đại, tự lực, tự cường, tự chủ.
Đại tướng Phan Văn Giang cho biết, khi tham dự các hội nghị an ninh thế giới ông đều nói về chính sách quốc phòng này.
Để đạt mục tiêu chính sách quốc phòng 4 không theo quan điểm này, Bộ trưởng Phan Văn Giang cho rằng, cần phát triển công nghiệp quốc phòng, an ninh trở thành mũi nhọn.
Người đứng đầu Bộ Quốc phòng cho hay, ở tất cả các nước trên thế giới, những công nghệ hiện đại nhất đều dành cho chiến tranh. Giải thích thêm về một số quy trình sản xuất trang thiết bị vũ khí, Đại tướng Phan Văn Giang cho biết, đây là lĩnh vực rất khó.
Đồng thời, không thể nói “năm nay tôi làm cái này, sang năm tôi làm cái khác được”.
Ông dẫn ví dụ: “Ô tô sản xuất ra có tốc độ tối đa 200 - 300 km/giờ nhưng hiện nay sản xuất ra các loại phương tiện chiến đấu có tốc độ 200 - 300 km/giờ không ăn thua gì, vì viên đạn AK có sơ tốc đã khoảng gần 800 m/s”.
Trong khi đó, Đại tướng Phan Văn Giang nhắc lại, các nước xuất khẩu vũ khí, khí tài đều không chuyển giao công nghệ lõi.
“Việt Nam đang dần tự sản xuất một số loại vũ khí, không phụ thuộc vào nhập khẩu”, Bộ trưởng chia sẻ.
Nhiều nhà khoa học tại Boeing, Lockheed Martin muốn về nước cống hiến
Về cơ chế thu hút, đãi ngộ, bảo vệ nhân tài, các nhà khoa học thuộc lực lượng phục vụ ngành công nghiệp quốc phòng an ninh, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Việt Nam dẫn chứng điển hình của Viettel.
“Viettel có được ngày hôm nay là nhờ cơ chế đặc thù thu hút nguồn nhân lực”. Đại tướng nói.
Ông nêu, có những nhà khoa học làm việc tại nước ngoài lương tính ra khoảng 300 - 400 triệu đồng/tháng, nhưng rất muốn về Việt Nam – càng đi xa càng muốn về - nhưng lương trong nước cũng phải đảm bảo 150 triệu đồng/tháng.
Đồng thời, theo Bộ trưởng, về nước cống hiến được kết nạp vào Đảng, trở thành sĩ quan và chỉ huy, cũng là nguyện vọng của đại đa số những nhà khoa học.
“Chúng tôi đã thu phục những người đó, có những người làm cho Boeing, Airbus, Lockheed Martin tại Mỹ, lương rất cao, cuộc sống rất đầy đủ nhưng vẫn muốn về. Ta phải có chính sách, chứ nếu trả lương như đại tá hay đại úy thì chắc người ta không đáp ứng được”, Bộ trưởng Phan Văn Giang chia sẻ thẳng thắn.
Người đứng đầu Bộ Quốc phòng nhấn mạnh, cần có cơ chế đặc thù cho những người rất giỏi trong lĩnh vực này.
Vấn đề bản quyền trong sản xuất vũ khí
Nêu ý kiến góp ý cho dự thảo luật, đại biểu Trần Văn Lâm - đoàn Bắc Giang cho rằng, nếu có tình huống thời chiến xảy ra, thì cần các nguồn lực có khả năng đóng góp và các nguồn lực có trách nhiệm đóng góp, để huy động phục vụ cho nhiệm vụ quốc phòng an ninh tuy theo tình huống và mức độ huy động.
Theo đó, trong thời bình, các nhà đầu tư có môi trường được đảm bảo hoà bình, an ninh để thực hiện đầu tư và thu về lợi nhuận. Và khi trong thời chiến, các nhà đầu tư là người Việt đang sinh sống trong nước đều có trách nhiệm đóng góp, thậm chí còn phải huy động về nhân lực.
Đối với những nhà đầu tư nước ngoài có tài sản tại Việt Nam, vẫn cần thiết phải đóng góp và thực hiện các quy định trong tình huống thời chiến. Như vậy mới là bình đẳng và mới mở rộng được phạm vi đầu tư.
ĐBQH lý giải, thực tế, đầu tư nước ngoài tại Việt Nam đang đóng góp rất lớn về tài sản và nguồn lực, họ cũng đang nắm công nghệ tiên tiến. Do đó, nếu bỏ lực lượng này khỏi luật, ĐBQH Trần Văn Lâm cho rằng, sẽ bỏ rơi một tiềm lực rất lớn để phục vụ cho công nghiệp quốc phòng trong thời chiến.
Đối với vấn đề bản quyền, ĐBQH đề nghị cơ quan soạn thảo nghiên cứu thêm, bởi bản quyền trong công nghiệp quốc phòng thuộc về nhiều cấp khác nhau. Có trường hợp bản quyền thuộc về các doanh nghiệp, nhưng Nhà nước vẫn phải có chính sách để quản lý và đảm bảo năng lực về công nghiệp quốc phòng của đất nước.
Đại biểu đoàn Bắc Giang lấy dẫn chứng về hãng tư nhân như Lockheed Martin tại Mỹ sản xuất máy bay chiến đấu và vũ khí hiện đại, nhưng khi bán cho đối tác nào thì vẫn phải do Chính phủ Mỹ cho phép mới được bán.
Trong khi đó, tại Việt Nam, lĩnh vực công nghiệp quốc phòng đã có những bước tiến bộ mạnh mẽ, rất nhiều công nghệ vươn lên hãng đầu thế giới ở một số lĩnh vực. Do vậy, vấn đề được phép xuất khẩu đến đâu và như thế nào, để tham gia vào thị trường thế giới.
ĐBQN nhấn mạnh làm sao vừa mang lại lợi ích kinh tế, vừa vẫn đảm bảo và giữ được bí mật quốc gia, giữ được vai trò dẫn dắt, đảm bảo bản quyền của quốc gia, do đó, trong luật phải có một quy định rõ ràng cho vấn đề bản quyền.
Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Phan Văn Giang trân trọng cảm ơn và khẳng định các ý kiến đại biểu nêu sẽ được ban soạn thảo tiếp thu, chỉnh sửa để báo cáo Quốc hội.