Phụ nữ Việt Nam sinh con thứ hai được nghỉ 7 tháng, ưu tiên mua nhà ở xã hội

Sáng 10/12, với 448/450 đại biểu có mặt tán thành, Quốc hội đã thông qua Luật Dân số, gồm 8 chương và 30 điều, có hiệu lực từ 1/7/2026.
Sputnik
Trước khi biểu quyết, Bộ trưởng Bộ Y tế Đào Hồng Lan thay mặt cơ quan chủ trì soạn thảo trình bày tóm tắt dự thảo sau khi tiếp thu, chỉnh lý. Theo Bộ trưởng, dự luật lần này đánh dấu sự chuyển hướng căn bản trong chính sách dân số - từ kế hoạch hóa gia đình sang dân số và phát triển.
Luật mới được xây dựng nhằm giải quyết đồng bộ các vấn đề về quy mô, cơ cấu dân số, thích ứng với già hóa, đồng thời nâng cao chất lượng dân số gắn với phát triển kinh tế - xã hội. Chính phủ đã bổ sung các quy định mang tính định hướng tổng thể, thể hiện chính sách vĩ mô của Nhà nước về dân số, phù hợp với chủ trương, đường lối của Đảng.
Việt Nam bỏ quy định “chỉ được sinh tối đa 2 con”
Một trong những nội dung đáng chú ý là chính sách duy trì mức sinh thay thế, với các biện pháp khuyến khích sinh con được thiết kế theo hướng hỗ trợ dài hạn, khả thi, dựa trên đánh giá thực tiễn và kinh nghiệm quốc tế.
Theo quy định mới, lao động nữ sinh con thứ hai được nghỉ thai sản 7 tháng, tăng thêm một tháng so với hiện hành; lao động nam được nghỉ 10 ngày làm việc khi vợ sinh con. Ngoài ra, người có từ 2 con đẻ trở lên được ưu tiên mua, thuê hoặc thuê mua nhà ở xã hội theo quy định pháp luật.
Luật cũng quy định hỗ trợ tài chính khi sinh con đối với phụ nữ dân tộc thiểu số rất ít người, phụ nữ sinh đủ hai con trước 35 tuổi, và phụ nữ ở tỉnh, thành có mức sinh thấp hơn mức thay thế. Các biện pháp hỗ trợ khác sẽ do Chính phủ quyết định.
Đề xuất ưu tiên mua nhà ở xã hội đối với phụ nữ sinh đủ hai con
Bên cạnh đó, luật mới bổ sung chính sách thích ứng với già hóa dân số, khuyến khích người dân chủ động chuẩn bị cho tuổi già về sức khỏe, tài chính, tâm lý; tham gia bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, học tập nâng cao kiến thức, kỹ năng để duy trì thể chất, tinh thần và chức năng xã hội.
Luật cũng phát triển đa dạng mô hình chăm sóc người cao tuổi, cả tại nhà và trong cộng đồng; đồng thời đào tạo nguồn nhân lực chăm sóc người cao tuổi, phân tách giữa nhóm chăm sóc chính thức và không chính thức, từ đó xây dựng cơ chế hỗ trợ, đào tạo phù hợp với từng nhóm đối tượng.
Thảo luận