Các nhà khoa học đã nghiên cứu phản ứng "one-pot" tổng hợp liên tục diketon 2 và celecoxib trong mô hình bình phản ứng khuẩy. Một số thông số của phản ứng tạo diketon đã được khảo sát trong đề tài cấp cơ sở khi sử dụng dung môi toluene. Tuy nhiên toluene lại không thích hợp khi tiến hành phản ứng ngưng tụ giữa diketon và 4-SAPH.HCL vì 4-SAPH.HCL chỉ tan trong một số dung môi phân cực.
TS Anh cùng các cộng sự đã nghiên cứu phản ứng tổng hợp liên tục diketon 2 đi từ 4-methylacet và ester của axit trìluoroacetic trong mô hình phản ứng dòng chảy liên tục. Các nhà khoa học cũng đã khảo sát phản ứng ngưng tụ liên tục giữa diketon 2 và sulfonamide phenylhydrazin hydrocholorid (4-SAPH.HCL).
Nhóm nghiên cứu đã hoàn thiện qui trình tinh chế celecoxib bằng phương pháp kết tinh; Nghiên cứu, xác định cấu trúc tinh thể thu được trong các trường hợp khảo sát; Xây dựng tiêu chuẩn cơ sở cho sản phẩm celecoxib tương đương tiêu chuẩn quốc tế; Xây dựng qui trình liên tục tổng hợp celecoxib qui mô 500g/mẻ; Xây dựng qui trình tinh chế celecoxib qui mô 500g/mẻ.
Nhóm các nhà khoa học cũng đã nghiên cứu thử độc tính cấp, độc tính bán trường diễn của celecoxib; độ ổn định của celecoxib >2 năm. TS Anh đã theo dõi đánh giá độ ổn định của celecoxib theo phương pháp lão hóa cấp tốc, tiến hành tại viện Kiểm nghiệm thuốc Trung ương.
Việc sản xuất được celecoxib tại Việt Nam đã mở ra cơ hội lớn để người bệnh có thể sử dụng các sản phẩm celecoxib với giá thành hợp lý hơn và mang đến một hướng điều trị mới hiệu quả hơn.
Nguồn: Thông tấn xã Việt Nam