Chuyên gia Robert Farley, giảng viên cấp cao tại Trường Ngoại giao và Thương mại Quốc tế Patterson, Đại học Kentucky mới đây đã đưa ra nhận định trên tờ National Interest, về cách vô hiệu hóa khả năng chiến đấu của tàu sân bay Mỹ.
Ông Farley nhận định, tàu sân bay đã trở thành tàu chiến chủ lực trong các cuộc hải chiến kể từ những năm 1940, và hiện vẫn là xương sống trong sức mạnh hải quân hiện đại. Nhưng trong bối cảnh tàu sân bay thể hiện sự thống trị tuyệt đối, lực lượng hải quân các nước cũng phải phát triển kế hoạch đối phó với thứ vũ khí khổng lồ này.
Trải qua thời gian, những kế hoạch dần thay đổi, nhưng nguyên tắc cơ bản thì vẫn giữ nguyên. Một số nhà phân tích quân sự cho rằng, cán cân công nghệ vũ khí đang dần rời xa khỏi tàu sân bay, chủ yếu do những bước tiến mới của Nga và Trung Quốc.
Ngư lôi
Ngày 17.9.1939, tàu ngầm U-29 của Đức đánh chìm tàu HMS Courageous của Anh. Courageous là tàu sân bay đầu tiên trên thế giới bị chìm do trúng ngư lôi của tàu ngầm.
Và đó cũng không phải thiệt hại duy nhất đối với tàu sân bay. Trong Thế chiến 2, Mỹ, Anh và Nhật Bản đã tổn thất không ít tàu sân bay cho đến tàu ngầm, đặc biệt là vụ tàu sân bay 69.000 tấn HIJMS Shinano bị đánh chìm năm 1944.
Ngư lôi phóng từ tàu ngầm cho đến nay vẫn là mối đe dọa nghiêm trọng đối với các tàu sân bay. Tàu ngầm Nga và Trung Quốc thường xuyên diễn tập khả năng tấn công các nhóm tàu sân bay Mỹ, cũng như các lực lượng hải quân đồng minh.
Các loại ngư lôi hiện đại gây hư hại cho tàu sân bay bằng cách phát nổ bên dưới, tạo ra sức ép phá vỡ vỏ tàu.
May mắn là chưa có loại ngư lôi nào như vậy đánh trúng mục tiêu có kích cỡ lớn như siêu tàu sân bay Mỹ, mặc dù Hải quân Mỹ đã nhiều lần thử nghiệm khả năng công phá của ngư lôi trên tàu sân bay cũ USS America (CV-66) vào năm 2005.
Những cuộc thử nghiệm đó, không làm chìm tàu sân bay Mỹ ngay, mà cần cả một quá trình.
Không ai biết liệu tàu sân bay Mỹ có thể chống chọi được bao nhiêu quả ngư lôi hiện đại trước khi chìm xuống dưới biển, nhưng người ta ước tính rằng thậm chí chỉ một quả ngư lôi đánh trúng vị trí quan trọng cũng có thể gây hư hại nghiêm trọng.
Năm 1943, người Đức đã sử dụng bom dẫn đường thông minh để phá hủy thiết giáp hạm Roma của Italia. Những quả bom như vậy mở đường cho sự xuất hiện của tên lửa hành trình tự hành, có thể phóng từ máy bay, tàu chiến, tàu ngầm hay tổ hợp trên mặt đất.
Trong giai đoạn Chiến tranh Lạnh, Liên Xô đã phát triển bệ phóng gọn nhẹ, có thể phóng tên lửa hành trình hủy diệt tàu sân bay Mỹ. Bệ phóng này được đặt ngay trên các tàu tuần tra cỡ nhỏ, cho đến phương tiện cỡ lớn như máy bay ném bom chiến lược.
Ngày nay, Nga, Trung Quốc và một số quốc gia khác đã biên chế nhiều loại tên lửa hành trình, đủ sức đánh chìm một hoặc nhiều nhóm tác chiến tàu sân bay Mỹ.
Những loại tên lửa này rất đa dạng về tầm bắn, tốc độ, phương thức tiếp cận mục tiêu. Loại tiên tiến nhất có thể bay với tốc độ cao (thường là siêu thanh), trong khi khó bị radar đối phương phát hiện.
Tương tự như ngư lôi, chưa có bằng chứng thực tế nào có thể chứng minh mức độ hiệu quả của tên lửa hành trình trước một siêu tàu sân bay hiện đại của Mỹ.
Theo tác giả Farley, trong trường hợp may mắn nhất đối với tàu sân bay, tên lửa hành trình vẫn có thể gây hư hại nghiêm trọng cho boong tàu, cản trở hoặc thậm chí làm tê liệt hoàn toàn hoạt động cất và hạ cánh.
Tên lửa đạn đạo
Trong thập kỷ qua, bước phát triển quan trọng nhất trong công nghệ tiêu diệt tàu sân bay là chương trình tên lửa đạn đạo chống tàu (ASBM).
Tên lửa DF-21 của Trung Quốc có tiềm năng hủy diệt các tàu sân bay Mỹ từ khoảng cách xa đến không tưởng. Những tên lửa này đặc biệt cơ động trong giai đoạn cuối, đe dọa vượt qua mọi hệ thống phòng thủ hiện tại.
Ở khoảnh khắc va chạm, chỉ riêng động năng của tên lửa đã có thể gây ra thiệt hại nghiêm trọng cho boong tàu, khiến tàu sân bay bị tê liệt hoàn toàn.
Sự xuất hiện của DF-21 đã buộc Hải quân Mỹ phải tăng cường đáng kể các nỗ lực phòng thủ tên lửa đạn đạo. Tuy nhiên, khả năng nhóm tàu Mỹ có thể chống chọi được trước ASBM vẫn là dấu hỏi lớn.
Loại tên lửa này buộc Hải quân Mỹ phải xem xét lại vai trò của tàu sân bay trong môi trường tác chiến nhiều rủi ro.
Chi phí hoạt động
Tàu sân bay lớp Ford mới của Mỹ (CVN-78) có giá lên tới 13 tỷ USD. Chi phí này chưa bao gồm phi đội chiến đấu cơ cũng như sẽ còn tăng cao hơn khi hải quân Mỹ bổ sung thêm các tàu hộ tống, yểm trợ.
Mặc dù chi phí sản xuất tàu sân bay có thể giảm xuống trong tương lai, mỗi chiếc tàu lớp Ford cũng cần quá nhiều thời gian đóng mới vì còn phải đợi trang bị thêm công nghệ.
Nước Mỹ vốn phải gánh chi phí khổng lồ cho hoạt động của các tàu sân bay trong 3 thập kỷ qua. Theo chiều hướng này, việc tiếp tục vung tay chi tiêu cho quốc phòng sẽ trở nên hết sức khó khăn. Khả năng Mỹ không có tiền duy trì hoạt động cho các nhóm tác chiến tàu sân bay là điều hoàn toàn có thể xảy ra nếu như xung đột nổ ra trong khoảng thời gian dài.
Sự thận trọng quá mức
Theo tác giả Farley, có lẽ Nga và Trung Quốc không cần phải tiêu diệt tàu sân bay Mỹ mà hãy để loại vũ khí khổng lồ nàytự biến mất. Ngư lôi, tên lửa hành trình, tên lửa đạn đạo và chi phí hoạt động quá cao là những yếu tố khiến cho quan chức hải quân Mỹ phải hết sức cẩn trọng khi sử dụng tàu sân bay.
Trong trường hợp xảy ra xung đột, các Đô đốc Hải quân và Tổng thống Mỹ sẽ lo ngại về mức độ dễ bị hư hại của tàu sân bay đến mức họ không dám sử dụng loại vũ khí khổng lồ này một cách quyết đoán và hiệu quả.
Giá trị quá cao của tàu sân bay trở thành điểm yếu lớn nhất. Con tàu trở nên đáng giá tới mức không thể để bị thiệt hại. Khi đó, tàu sân bay chỉ còn có thể đứng bên lề trong cuộc xung đột căng thẳng của Mỹ với một đối thủ ngang tầm.
Và nếu tàu sân bay không thể đóng góp được gì trong các cuộc xung đột quan trọng nhất, trong khi vẫn phải tốn nhiều nguồn lực khổng lồ để chế tạo và bảo vệ chúng thì điều đó, chính là lý do khiến cho tàu sân bay trở nên lỗi thời, chấm dứt vai trò biểu tượng sức mạnh của hải quân, ông Farley nhận định.
Theo ông Farley, những dấu hiệu trên không hoàn toàn khiến cho tàu sân bay trở nên lỗi thời ngay lập tức.
Trung Quốc và Nga hiện liên tục nghiên cứu các phương thức tiêu diệt tàu sân bay hiệu quả hơn. Các cường quốc này phát triển hàng loạt hệ thống vũ khí tiên tiến, bởi tàu sân bay đã có biện pháp đối phó phù hợp với nhiều loại trong số này.
Bên cạnh đó, Trung Quốc đã bắt tay vào phát triển chương trình tàu sân bay nội địa. Hải quân Trung Quốc sẽ sớm biên chế lực lượng tàu sân bay lớn thứ hai trên thế giới.
Trong tương lai, hải quân Mỹ sẽ phải tìm cách giảm chi phí sản xuất và bảo dưỡng tàu sân bay, để tiếp tục duy trì vị thế của loại vũ khí này trong cơ cấu chính sách quốc phòng Mỹ, ông Farley kết luận.
Nguồn: danviet