Chiếc Besant có vỏ làm bằng hợp kim thép; lượng giãn nước tiêu chuẩn 2.093 tấn, lên tới 3.231 tấn khi mang đầy tải; chiều dài 83 m; chiều rộng 16 m; chiều cao mạn 4,1 m; tốc độ tối đa 16 hải lý/h.
Tàu có mã nhận dạng dịch vụ di động hàng hải (MMSI) là 503000092 và số nhận dạng tàu (IMO) do Tổ chức Hàng hải quốc tế cấp là 9676149.
Đây là loại tàu cứu hộ thế hệ mới, thực hiện nhiệm vụ cứu hộ tàu ngầm bằng các thiết bị chuyên dụng có tính năng vượt trội như phát hiện tọa độ, điện thoại liên lạc và robot lặn kết nối với tàu ngầm để cứu nạn thuyền viên khi tàu gặp sự cố. Tàu có thể định vị vị trí, neo không dây trong điều kiện thời tiết phức tạp.
Trong khi đó "chị em" của tàu Besant — Chiếc Stoker (EGS 9316) được Nhà máy Z189 hạ thủy tháng 5/2015 và bàn giao cho đối tác vào cuối năm 2015.
Được biết 100 năm trước, hai tàu ngầm đầu tiên mà Hải quân Hoàng gia Australia đưa vào hoạt động là tàu AE1 và AE2 do hai Thiếu tá hải quân Thomas Besant và Henry Stoker chỉ huy. Tên của các ông đã được chọn để đặt cho cặp tàu cứu hộ tàu ngầm này.
Việc đóng thành công tàu cứu hộ tàu ngầm cỡ lớn hiện đại cho đối tác tác ngoài đã khẳng định trình độ của nền công nghiệp quốc phòng Việt Nam, đây đồng thời còn là cơ sở để chúng ta tiến tới tự chủ đóng mới những con tàu tương tự, phù hợp với yêu cầu và đặc thù phương tiện của hải quân nước nhà. Trong ảnh là phương tiện cứu hộ (tàu ngầm mini) LR5 được thả từ tàu Stoker để làm nhiệm vụ.
Nguồn: Thời Đại