KHÔNG QUÂN VIỆT NAM LÀM GÌ ĐỂ CÓ NHỮNG CHIẾN CÔNG XUẤT SẮC CỦA 2 ANH HÙNG MIG-21 PHẠM TUÂN VÀ VŨ XUÂN THIỀU?
MiG-21 tìm cách tiếp cận B-52…
Đối với MiG bay đêm, phương tiện duy nhất để tìm thấy kẻ thù là radar. Thế nhưng trên mỗi chiếc B-52 có tới hàng chục máy gây nhiễu tự động, với hệ thống tần số choán hết dãy tần số của các đài ra-đa dẫn đường cũng như radar ngắm bắn của phi công ta.
Để đối phó với MIG tiến công từ phía sau, ở phần đuôi mỗi B-52 đều có lắp một khẩu súng máy 12,7 ly luôn luôn sẵn sàng nhả đạn. Lại còn 6 hỏa tiễn "nhử mồi" Gờ-rin Quây (Green Quai) rất lợi hại. Nếu tên lửa K-13, loại tìm nhiệt, của ta phóng vào B-52 mà gặp hỏa tiễn nhử mồi, thì đường đạn sẽ bay chệch sang luồng nhiệt thu hút của nó.
Để triệt tiêu mọi hoạt động của không quân đối phương, Không quân Mỹ đã tổ chức một lực lượng lớn máy bay tiêm kích F-4, hình thành một "bức rào cản di động" bảo vệ đội hình bay của B-52.
Ngoài ra, trước khi B-52 đến Hà Nội khoảng 30 phút, những chiếc F-111A "cánh cụp cánh xòe" bay rất thấp đã đến ném bom phá hủy hai đầu đường băng của các sân bay, khiến cho máy bay MiG-21 ta không còn đường cất cánh.
Tiếp theo là những chiếc F-4 khác đến lượn vòng khống chế vùng trời trên sân bay để sẵn sàng bắn rơi bất kỳ chiếc MiG nào cất cánh bay lên.
Có lẽ vào lúc này, những con "diều hâu" trong Nhà Trắng và Lầu Năm Góc đang nhớ lại những giờ phút huy hoàng của Không quân Hợp chủng quốc Hoa Kỳ hồi cuối Thế chiến thứ hai, khi hàng trăm pháo đài bay B-29 và rất nhiều máy bay chiến thuật, bằng những đợt bom dữ dội, đã dập tắt mọi khả năng cất cánh của hàng ngàn máy bay tiêm kích Nhật.
Ngày 19 và 20 tháng 12 năm 1972, các hãng thông tin và báo chí Mỹ tung tin: "MiG của Bắc Việt đã bị hoàn toàn tê liệt".
Về phía ta, một câu hỏi được đặt ra từ trước: "Ở vào điều kiện không quân Mỹ hầu như chiếm lĩnh bầu trời, radar ta bị nhiễu nặng, trong không gian mênh mông tối đen mù mịt, MiG-21 của ta làm sao cất cánh bay lên, làm thế nào chọc thủng được cái "vỏ thép" dày đặc của lũ F-4, làm sao tìm được B52, tiếp cận được nó để nổ súng chính xác?"
Câu trả lời là: bằng những cố gắng phi thường, không quân ta đã vượt qua tất cả, để cuối cùng MiG vẫn tồn tại, vẫn cất cánh chiến đấu và lập công xuất sắc.
Đầu tiên phải nói về cách đánh: trước kia, do chưa có điều kiện "tiếp xúc" với B-52, chưa hiểu được thủ đoạn chiến thuật của chúng, cho nên không quân ta chưa có được cách đánh phù hợp.
Khoảng đầu năm 1971, theo chỉ thị của Phó tư lệnh Quân chủng phụ trách Không quân Nguyễn Văn Tiên, Tư lệnh Binh chủng Không quân Đào Đình Luyện và Phó tư lệnh Binh chủng Trần Mạnh*, một đoàn nghiên cứu cách đánh B52 gồm các sĩ quan tham mưu tác chiến, quân báo, dẫn đường và một số phi công có kinh nghiệm, do Phó trung đoàn trường Trung đoàn 921 Nguyễn Nhật Chiêu** chỉ huy lên đường vào Quảng Bình.
Từ các điểm cao trên đỉnh Trường Sơn, các anh quan sát bằng mắt, lắng nghe bằng tai, mọi hoạt động của lũ pháo đài bay B-52 và của những chiếc F-105 hộ tống. Các anh tìm hiểu quy luật hoạt động của địch, nghiên cứu khả năng khống chế của radar và tên lửa của Mỹ từ trên các chiến hạm lởn vởn ngoài biển Đông.
… và phóng tên lửa diệt B-52
Một phương án dùng MiG-21 đánh B-52 được vạch ra và được Quân chủng chấp thuận, với yêu cầu về giữ bí mật hết sức nghiêm ngặt. Sau khi cất cánh phải bay thật thấp để tránh radar từ các tàu chiến phát hiện. Các trạm radar của ta phải thực hiện những quy ước về mật hiệu cất cánh và dẫn đường thật chặt chẽ, phải tổ chức nghi binh cho khôn khéo…
Trong lần xuất kích đêm 4 tháng 10 năm 1971, phi công Đinh Tôn*** đã phát hiện được B52, nhưng do ở thế bất lợi nên được lệnh phải quay về. Đến đêm 20/11/1971, phi công Vũ Đình Rạng lại được giao nhiệm vụ tìm đánh B-52. Anh cất cánh từ một sân bay ở Nghệ An.
Được sự dẫn đường của radar và Sở chỉ huy mặt đất, anh bay thấp dọc Trường Sơn vào khu vực B-52 đang hoạt động. Còn cách dịch 50 km, anh vút lên cao tiếp cận mục tiêu. Rạng đã nhìn thấy 3 chiếc B-52 với những hàng đèn trên lưng, bên cánh, trên đuôi. Vào đến khoảng cách 2.000 mét, anh chọn chiếc đi đấu và ấn nút phóng tên lửa.
Chiếc B-52 bốc cháy, bay về hướng tây và đáp khẩn cấp xuống một sân bay ở Thái Lan. Gần đây theo tiết lộ của một cựu thiếu tá phi công Mỹ, Ralp Welterhalm, thì chiếc B52 này hôm ấy không thể về được căn cứ U-ta-pao, mà phải hạ cánh bắt buộc xuống sân bay chiến thuật Na-khon Pha-nom. Nó đã bị phế bỏ ngay sau đó vì bị thương quá nặng.
Khiếp sợ trước sự tấn công uy hiếp của MiG-21, suốt một tuần lễ sau đó, không một chiếc B-52 nào dám bén mảng đến vùng trời "cửa khẩu" Trường Sơn gồm các con đường 12, 20, 10, 16 xuất phát từ Quảng Bình, vắt qua đỉnh Trường Sơn đi sang phía tây và đường 18 bắt đầu từ ki-lô-mét 43 đường 10.
Hàng ngàn xe vận chuyển của ta tranh thủ vượt cung, tăng chuyến, đưa hàng vào mặt trận phía Nam ngoài mức kế hoạch.
Song, điều quan trọng hơn là qua trận đánh của Vũ Đình Rạng, không quân ta đã xác định được cách đánh B-52 và khẳng định: MiG-21 của ta có thể bắn được B-52 Mỹ.
"Phương án năm cánh sao", tức là kế hoạch đánh địch trên 5 hướng để bảo vệ Hà Nội của Binh chủng Không quân được hình thành và đã sớm được hoàn chỉnh trước khi bước vào trận đánh lớn nhiều ngày.
KQVN khắc phục khó khăn diệt B-52, lập công lớn
Địch nhiều ta ít thì ta đánh lối du kích, dùng tốp nhỏ chiếc lẻ quần nhau với địch, với khẩu hiệu "một người, một máy bay vẫn tiến công", cực kỳ dũng mãnh, "tả xung hữu đột" giống như hành động "nắm thắt lưng địch mà đánh" của Quân giải phóng miền Nam.
Địch đánh hỏng đường băng chính, ta dùng đường băng phụ. Đường băng phụ hỏng, ta dùng đường lăn. Đường lăn hỏng, thì ta cất cánh từ các sân bay dã chiến, vòng ngoài. Mặt khác, tuy không có khẩu hiệu "địch đánh, ta sửa ta đi" như trên đường Trường Sơn, nhưng ở những sân bay miền Bắc lúc ấy cũng có một quyết tâm tương tự: "Địch phá, ta sửa ta bay".
Bộ đội công binh của Quân chủng, được sự trợ giúp của đông đảo nhân dân các địa phương lân cận, mỗi lần đường băng bị bom phá nát, lập tức tổ chức ngay việc san lấp các hố bom, dọn sạch đất đá trên đường băng cho máy bay ta cất cánh.
Có khi máy phát điện sân bay bị đánh hỏng, hệ thống đèn đường băng tắt. Ngay lập tức, anh chị em dân quân cùng bộ đội trực chiến cầm đuốc lao ra, bất chấp hiểm nguy, đứng thay vị trí những ngọn đèn để làm chuẩn cho máy bay ta thấy đường hạ cánh.
Máy bay trinh sát của địch "chà đi xát lại" dò tìm vị trí máy bay ta, thì ta tổ chức ngụy trang MiG thật kín đáo. Có lúc chúng ta còn dùng máy bay lên thẳng loại lớn, ban ngày "cẩu" MiG đi giấu nơi xa, tối đến trả MiG về lại sân bay để sẵn sàng chiến đấu.
Máy bay tiêm kích F-4 bảo vệ B-52 rất đông, tầng tầng lớp lớp, thì các phi công ta đột nhập từ phía sau hoặc từ bên sườn rồi bất ngờ tăng tốc thọc sâu, vượt qua đầu bọn F4, đuổi kịp B-52 mà tấn công.
Bị địch phóng tên lửa thì bằng những động tác khôn khéo điêu luyện, các anh kịp thời lần lượt né tránh. Cuối cùng bằng tinh thần quả cảm và tài trí tuyệt vời các phi công ta đã bắn rơi được B-52 Mỹ, như Phạm Tuân đêm 27 và Vũ Xuân Thiều đêm 28/12/1972.
Riêng trường hợp Vũ Xuân Thiều, cất cánh từ một sân bay dã chiến ở Thanh Hóa, đến vùng trời Sơn La, khó khăn lắm anh mới lọt qua được hàng rào máy bay tiêm kích F-4 để đến gần một tốp B-52, từ phía sau. Chiếc đi đầu đã lọt vào đường ngắm.
Căn cứ những chiếc đèn trên thân B52, anh đã xác định được cự ly bắn, nhưng để chắc ăn, Thiều quyết định phóng tên lửa K13 ở khoảng cách thật gần. Câu nói cuối cùng của Thiều gọi về Sở chỉ huy:
"Thăng Long! Thăng Long! Tôi đã bắn cả 2 quả tên lửa. B-52 chỉ bị thương nhẹ. Xin phép được tiêu diệt".
Rồi cùng với chiếc MIG thân yêu mang số hiệu 5124, Vũ Xuân Thiều lao thẳng vào chiếc pháo dài bay Mỹ… và anh đã hy sinh.
Trong 12 ngày đêm với 24 lần xuất kích, các chiến sĩ lái MiG đã diệt 7 máy bay địch, trong đó có 2 pháo đài bay B-52. Thật là kỳ diệu!
Ngoài ra, phi công ta còn có thành tích đáng khâm phục nữa là bằng những cánh bay MiG ít ỏi, các anh đã dũng mãnh lao vào đêm tối, xông thẳng vào đội hình dày đặc của máy bay tiêm kích Mỹ.
Qua đó, MiG đã buộc chúng phải quay ra đối phó, đội hình bay rối loạn, khiến cho cường độ nhiễu của chúng giảm đi, để lộ ra hình thù B-52 trên màn hiện sóng, tạo điều kiện cho các trắc thủ tên lửa ta nhìn thấy đối tượng chính mà tiêu diệt. Trong 12 ngày đêm, phi công ta với nhiều lần xuất kích, đã 8 lần phá vỡ, làm rối loạn đội hình của máy bay tiêm kích địch.
Bộ Tổng Tham mưu đánh giá trong chiến dịch này, bộ đội không quân ta rất tài giỏi, đã góp phần rất tích cực vào chiến thắng rực rỡ "Điện Biên Phủ trên không".
Nguồn: Thời đại