Chỉ trong vài năm, nhà máy trở thành một doanh nghiệp công nghiệp hàng đầu của Liên Xô. Về các dự án quan trọng nhất của GAZ - trong tài liệu của Sputnik.
Bắt đầu con đường
Để tổ chức sản xuất ô tô quy mô lớn lên tới 100 nghìn chiếc mỗi năm, lãnh đạo Liên Xô đã quyết định vào năm 1929: Nizhny Novgorod là nơi phù hợp nhất cho điều này với các ngành công nghiệp phụ trợ, giao thông đường sắt, đường thủy phát triển, và nhân lực có trình độ.
Tuy nhiên, Liên Xô không có kinh nghiệm trong việc xây dựng các doanh nghiệp khổng lồ chế tạo xe ô tô. Chính phủ Liên Xô đề nghị Hoa Kỳ giúp đỡ. Vào tháng 5 năm 1929, Hội đồng tối cao kinh tế quốc dân và Công ty Mỹ Ford Motor đã thỏa thuận về hỗ trợ kỹ thuật từ các chuyên gia phương Tây trong việc xây dựng nhà máy, thiết bị nhà xưởng và phát triển công nghệ sản xuất xe ô tô hàng loạt.
Thiết kế kiến trúc dự án được thực hiện ở Cleveland (Mỹ). Tại Liên Xô, lên kế hoạch xây dựng các trạm phát điện, nhiệt, đường ống dẫn dầu, đường hầm vận chuyển, văn phòng, nhà kho, các tòa nhà dân cư và tiện ích.
Ngoài ra, Ford cho phép sử dụng tất cả các bằng sáng chế của mình và nhận đào tạo các thực tập sinh Liên Xô nghiên cứu sản xuất và lắp ráp ô tô, tiếp cận các dây chuyền sản xuất. Trong một năm rưỡi, cả một thành phố mọc lên trên vùng đất trống gần làng «Monastyri». Những sản phẩm đầu tiên rời khỏi dây chuyền lắp ráp là các phiên bản xe tải «Ford-AA» và xe du lịch «Ford-A».
«Ngựa thồ»
Vào cuối tháng 1 năm 1932, nhà máy đã lắp ráp chiếc xe tải đầu tiên - «NAZ-AA» trọng tải 1,5 tấn. Sáu tháng sau, khi Nizhny được đổi tên thành Gorky, chiếc xe tải được mang tên «GAZ-AA». Chẳng mấy chốc nhà máy đã sản xuất 60 xe mỗi ngày. Mẫu này trở nên phổ biến nhất ở Liên Xô trong nửa đầu thế kỷ 20 - khoảng một triệu chiếc đã rời khỏi dây chuyền lắp ráp.
Lúc đầu «GAZ-AA» được lắp ráp từ các bộ linh kiện sẵn của Mỹ theo phương pháp «tuốc nơ vít», nhưng sau một năm nhà máy đã hoàn toàn chuyển sang sử dụng linh kiện trong nước.
Các linh kiện và cơ phận được gắn trên một khung thép dập. Cả hai trục xe treo trên nhíp. Không có giảm xóc bánh sau, bánh trước chịu tải trọng trên khung bằng các thanh đẩy. Mô-men xoắn từ động cơ truyền đến các bánh xe bằng trục cardan, và được điều khiển bởi hộp số bốn cấp. Động cơ 4 xi-lanh, công suất 42 mã lực.
Phiên bản xe tải này, cùng với «Katyusha» và xe tăng T-34, trở thành một trong những biểu tượng của Chiến tranh Vệ quốc vĩ đại. Ngay trước cuộc tấn công của Đức vào Liên Xô, xe tải đã được hiện đại hóa - công suất được tăng lên 50 mã lực, hệ thống treo và thiết bị lái được tăng cường.
Quân đội cần đến một số lượng lớn «ngựa thồ» - hơn 300 nghìn xe «GAZ-AA» trong những năm chiến tranh hàng ngày vận chuyển các đơn vị bộ binh, thương binh, thực phẩm và đạn dược. Ngoài ra, những xe này được sử dụng vận chuyển xăng dầu, làm xe sửa chữa kỹ thuật, một số được trang bị máy thu phát radio và thậm chí cả vũ khí - súng máy Maxim và DShK.
Để giảm chi phí, thiết kế loại bỏ mọi thứ không cần thiết. Cánh cửa kim loại và gỗ dán được thay thế bằng vải, nóc xe được làm bằng vải bạt, và miếng che hai bên phía trước làm bằng tôn lợp mái.
Ngoài ra, xe được trang bị một đèn pha trước, gỡ bỏ cần gạt nước kính chắn gió và cụm phanh bánh trước. Tất cả các thiết bị này chỉ lắp trở lại theo thiết kế ban đầu sau ngày Chiến thắng. Chiếc xe huyền thoại xuất xưởng cho đến đầu những năm 1950, và vẫn tiếp tục hoạt động trên các con đường ở Liên Xô cho đến cuối thập kỷ 60.
Chiếc xe đại chúng đầu tiên
Vào tháng 6 năm 1946, xe GAZ-M20 «Pobeda», chiếc xe hoàn toàn dân sự đầu tiên đã rời khỏi dây chuyền lắp ráp của nhà máy ô tô Gorky. Sản phẩm bắt đầu được phát triển từ năm 1943, với nguyên mẫu là xe chiến lợi phẩm Opel Kapitan của Đức.
Vào thời điểm đó, «Pobeda» khá tiên tiến với thân vỏ chịu lực, phanh tang trống thủy lực, van nhiệt làm mát động cơ, hệ thống treo bánh trước độc lập, giảm xóc thanh đòn, mang đến cảm giác lái mượt mà. GAZ-M20 có đèn báo rẽ, đèn phanh, cần gạt nước bằng động cơ điện, sưởi khoang xe, và quạt gió kinh trước.
Hai loại động cơ được lắp ráp trên xe mới: động cơ 4 xi-lanh nội địa và Dodge 6 xi-lanh sản xuất theo giấy phép của Mỹ - tuy nhiên đã bị loại bỏ sau đó vì lý do kinh tế. Động cơ 4 xy lanh công suất 50 mã lực tăng tốc chiếc xe lên 105 km\h trong 45 giây. Mặc dù sức mạnh rõ ràng không đủ cho hệ động lực của «Pobeda», nhưng động cơ được coi là đáng tin cậy và bền bỉ.
Năm 1948, xe được hiện đại hóa: khung gầm, hệ thống thông gió được cải tiến và hộp số mới. Kể từ năm 1955, xe được lắp động cơ 52 mã lực, thay đồi hình thức lưới tản nhiệt, và thêm một radio nghe đài bên trong. Với cấu hình này, hơn 240 nghìn xe «Pobeda» được sản xuất cho đến năm 1958.
Có một số lựa chọn về kết cấu, bao gồm cả taxi. Nhà máy sản xuất phiên bản mui trần với nóc vải mở được, cũng như một lô nhỏ xe chạy off-road với cơ phận và linh kiện từ xe địa hình GAZ – 69.
Niềm tự hào của đất nước
«Pobeda» được thay thế bằng xe Volga từ năm 1956. GAZ-21 kết hợp tất cả các giải pháp kỹ thuật tiên tiến nhất thời bấy giờ. Ví dụ như một số phiên bản thậm chí còn được trang bị hộp số tự động 3 số.
«Volga» vận hành kinh tế, đáng tin cậy và năng động hơn nhiều so với xe tiền nhiệm. Tăng tốc lên 100 km\giờ trong hơn 30 giây một chút. Hệ thống treo lò xo độc lập phía trước và phía sau phù hợp với đường xấu một cách xuất sắc. Các nhà phát triển đặc biệt chú ý đến thiết kế. Và mặc dù có tham khảo từ xe Mỹ Ford Mainline và Chevrolet Styleline, chiếc xe mới của Liên Xô tỏ ra hài hòa và có cá tính.
Hai cần gạt nước, khoang xe tiện nghi: lò sưởi, quạt thổi kính chắn gió, gương chiếu hậu, tấm che nắng, gạt tàn thuốc lá, ổ châm thuốc, radio. Kính chắn gió toàn cảnh không cần trụ giữa, tầm nhìn tốt phía sau.
Chiếc xe rất phổ biến không chỉ ở Liên Xô, mà còn được xuất khẩu sang hơn 40 quốc gia, bao gồm Anh, Hy Lạp, Bỉ và Phần Lan. Tại nhà máy ô tô Gorky, đã thành lập bộ phận chuyên cung ứng xuất khẩu.
Xe sedan cho quan chức
Ngoài sản phẩm đại chúng, nhà máy Gorki cũng sản xuất những mẫu xe sang trọng. Năm 1959, chiếc «Chaika» (GAZ-13) xuất xưởng - đại diện cho danh pháp của Liên Xô: các bộ trưởng, bí thư Đảng địa phương, đại sứ Liên Xô ở nước ngoài. Một số nhân vật văn hóa nổi tiếng cũng sử dụng loại xe này.
Các nhà thiết kế cố gắng làm cho «Chaika» thoải mái tiện nghi nhất có thể, bao gồm cả cửa kính điện và ổ châm thuốc. Phía sau cabin, lắp đặt loa radio, ăng-ten cải tiến, nâng hạ bằng một nút bấm. Không cần yêu cầu lái xe, khách có thể tự mình chuyển đổi băng tần sóng radio bằng điều khiển từ xa có dây. Nội thất với ghế nhung được hoàn thiện bằng vật liệu chrome, gỗ và da.
Dành cho «Chaika», nhà máy đã phát triển riêng hộp số tự động nút nhấn, trợ lực lái thủy lực, trợ lực phanh chân không và lốp không săm.
Dưới đầu xe - động cơ 8 xi-lanh 195 mã lực, tốc độ tối đa 160 km mỗi giờ với khả năng tăng tốc lên 100 km\h chỉ trong 20 giây.
Và mặc dù bề ngoài của «Chaika» có thể nhận thấy các đặc điểm của xe Mỹ Packard Caribbean, chiếc xe này không thể bị nhầm lẫn với bất kỳ chiếc nào khác. Nhà máy sản xuất từng lô nhỏ, và theo quy định, không bán cho các tư nhân. Cho đến năm 1978, Nhà máy ô tô Gorky đã lắp ráp khoảng 3000 xe «Chaika» các phiên bản khác nhau, bao gồm cả xe limousine, đuôi dài và mui trần.