Không chỉ dáng người phụ thuộc vào điều này, đây cũng là một yếu tố có thể gây ra các vấn đề sức khỏe.
Chiều dài ngón tay
Năm 2001, trong quá trình quan sát những người đàn ông bị đau tim, các nhà nghiên cứu tại Đại học Liverpool đã phát hiện ra rằng, trong số họ có rất nhiều người với ngón đeo nhẫn ngắn. Và ngón đeo nhẫn ngắn hơn ngón trỏ càng nhiều thì các vấn đề về tim càng xảy ra sớm hơn - thường vào khoảng 30 tuổi. Nếu độ dài hai ngón tay này bằng nhau thì cơn đau tim thường xảy ra sau 50 tuổi. Và đối với những người có ngón trỏ ngắn hơn một chút so với ngón đeo nhẫn, những dấu hiệu đầu tiên của bệnh tim mạch thường được ghi nhận chỉ ở độ tuổi 70.
Testosterone levels seen prior to birth in fetus’ fingers, jawline
— HRTwisdom (@HGHinjectionsMD) July 6, 2019
A child’s index finger to the ring finger ratio plays a role in the shape of a face – and it can be seen even before a boy hits puberty.https://t.co/i5u5OjDKA2#testosterone #TRT #lowt pic.twitter.com/g5YF9uWnGM
Các nhà khoa học cho rằng, testosterone là nguyên nhân chính gây ảnh hưởng đến chiều dài ngón tay của thai nhi trong quá trình phát triển trong tử cung. Đây là lý do tại sao ngón đeo nhẫn ở phụ nữ thường ngắn hơn ngón trỏ, trong khi ở nam giới thì ngược lại. Nhưng, vì đã có nồng độ testosterone cao từ tuần thứ 8 cho đến tuần thứ 14 của thai kỳ, ở các đàn ông người Anh này đã hình thành ngón đeo nhẫn ngắn.
Ngoài ra, điều này đã làm tăng nồng độ hormone ở người lớn. Và việc tăng cao nồng độ testosterone nội sinh thường dẫn đến việc hình thành cục máu đông và phát triển những bệnh tim. Các tác giả của công trình khoa học lưu ý, ngón đeo nhẫn ngắn cảnh báo nguy cơ đau tim và đột quỵ khi còn trẻ.
Kết luận này có vẻ hợp lý. Và 3 năm sau, các nhà khoa học từ Đại học Cambridge đã xác nhận giả thuyết này. Trong quá trình quan sát 30 phụ nữ mang thai và sau đó các con của họ, các nhà khoa học đã phát hiện ra rằng, nồng độ hormone sinh dục trước khi sinh gây ảnh hưởng đến tỷ lệ chiều dài của ngón trỏ và ngón đeo nhẫn.
Tuy nhiên, vào năm 2010, trong quá trình quan sát 244 phụ nữ và con cái của họ, các nhà nghiên cứu Úc không tìm thấy mối liên quan nào như vậy.
Vào năm 2020, các nhà khoa học Ba Lan đã chỉ ra rằng, sự gia tăng tiếp xúc với hormone trong tử cung không liên quan đến nồng độ hormone ở người lớn.
Tuy nhiên, các chuyên gia Anh và Đức lưu ý rằng, mặc dù nồng độ cao của testosterone trong quá trình phát triển phôi thai không ảnh hưởng đến hàm lượng của nó trong cơ thể nam giới, nhưng, việc sản xuất hormone này gia tăng khi con người ở trạng thái căng thẳng hoặc hoạt động gắng sức.
Từ ung thư đến viêm xương khớp
Những người đàn ông với ngón đeo nhẫn ngắn hơn ngón trỏ không chỉ có nguy cơ mắc bệnh tim mà còn bệnh lý ác tính - ung thư tuyến tiền liệt. Kết luận này đã được đưa ra bởi các nhà nghiên cứu Anh sau khi so sánh một nghìn rưỡi bệnh nhân ung thư tuyến tiền liệt với ba nghìn người đàn ông khỏe mạnh.
Hóa ra, những người có ngón trỏ dài hơn có nguy cơ phát triển ung thư tuyến tiền liệt cao hơn 33%. Các tác giả của công trình khoa học cho rằng, vấn đề chính ở đây là các gen HoxA và HoxD: hai gen này chịu trách nhiệm cả về chiều dài của các ngón tay và hệ thống sinh sản.
Ngoài ra, các khối u ác tính thường phát triển trong tuyến tiền liệt khi nồng độ testosterone gia tăng. Và điều này có thể là hệ quả của những đặc điểm trong quá trình phát triển trong tử cung - tinh hoàn của thai nhi sản xuất quá nhiều hormone này. Kết quả là ngón trỏ dài được hình thành, và điều đó có thể được coi là dấu hiệu dễ mắc ung thư tuyến tiền liệt.
Ở phụ nữ, ngón trỏ dài hơn ngón đeo nhẫn thường cho thấy mãn kinh muộn. Mặt khác, ngón trỏ ngắn làm giảm nguy cơ phát triển ung thư vú, nhưng làm tăng nguy cơ mắc bệnh viêm xương khớp ngón tay.
Đôi chân dài miên man
Theo các nhà khoa học Đức, đôi chân dài đảm bảo rằng người này không có nguy cơ mắc bệnh tiểu đường. Các chuyên gia đã phân tích dữ liệu về chiều dài đôi chân, vòng eo, cân nặng và sức khỏe của hai nghìn rưỡi người trung niên. Hóa ra rằng, tính trung bình, đôi chân dài hơn 10 cm so với chiều cao thấp nhất (169,7 đối với nam và 157,8 đối với nữ) làm giảm nguy cơ mắc bệnh tiểu đường loại 2 ở nam giới là 41% và ở nữ giới là 33%. Cả nam lẫn nữ với đôi chân dài có rất ít khả năng mắc bệnh. Mặt khác, phần thân dài góp phần vào sự phát triển của bệnh tiểu đường, nhưng chỉ ở nam giới.
The length of your legs may be linked to your chances of getting type 2 diabetes. More information: https://t.co/gsGt3kHAkl pic.twitter.com/s0QXL4ZfKU
— Dingo Publishing (@DingoPublishing) January 3, 2018
Tuy nhiên, các tác giả cảnh báo, thừa cân - bất kể nguyên nhân là gì - xóa nhòa lợi thế của tầm vóc cao. Ví dụ, ở những người gầy, cứ mỗi 10 cm lại giảm nguy cơ mắc bệnh tiểu đường ở nam giới - 86% và ở phụ nữ - 67%. Nhưng, đối với những người thừa cân hoặc béo phì, tác động này ít hơn nhiều: nam giới - 36% và phụ nữ - 30%.
Các chuyên gia ung thư Mỹ cho rằng, những người với đôi chân dài có nguy cơ cao hơn bị ung thư ruột và ruột kết. Sau khi nghiên cứu dữ liệu nhân trắc học và hồ sơ y tế của gần 15 nghìn người từ 45 đến 64 tuổi, họ đã phát hiện ra rằng, những người có đôi chân dài nhất có nguy cơ phát triển ung thư đại trực tràng cao hơn 36% so với những người có đôi chân ngắn nhất, và nguy cơ phát triển ung thư ruột là cao hơn 51%. Hơn nữa, tầm vóc không ảnh hưởng đến điều này.
Các vấn đề về trí nhớ
Theo nghiên cứu của các nhà khoa học của Đại học Hoàng đế Luân Đôn (King's College London), sau khi vượt qua mốc 50 tuổi, những người với đôi chân dài ít gặp khó khăn về trí nhớ và sự chú ý. Các nhà khoa học đã quan sát 1.677 tình nguyện viên từ sơ sinh đến 53 tuổi. Trong bài kiểm tra nhận thức được thực hiện gần đây, những tình nguyện viên với đôi chân dài nhất - tương quan với phần thân - đạt điểm cao nhất.
Các nhà khoa học cho rằng, điều này là nhờ chế độ dinh dưỡng tốt trong thời thơ ấu và các yếu tố môi trường thuận lợi, bao gồm thu nhập cao của cha mẹ và môi trường yên tĩnh và trong lành khi người mẹ mang thai. Đôi chân dài cho thấy sự tăng trưởng nội tiết tố nhanh chóng. Còn đôi chân ngắn cho thấy tình trạng thiếu thức ăn hoặc những bữa ăn đơn điệu trong những năm đầu đời. Điều này có thể gây ra các vấn đề lâu dài, chẳng hạn như tăng độ nhạy cảm với insulin, nguy cơ cao mắc bệnh tiểu đường loại 2 và suy giảm nhận thức khi già đi.
Tuy nhiên, trong một cuộc nghiên cứu tương tự được thực hiện ba năm sau bởi một nhóm các nhà khoa học quốc tế, không tìm thấy mối liên hệ nào như vậy.